Tiểu dẫn vào Các sách Tiên tri

[ Mục lục ]

******************************

                                                CÁC TIÊN TRI

                                                TIỂU DẪN

            Thánh kinh Hipri gộp các sách của Ysaya, Yêrêmya, Êzêkiel và của mười hai tiên tri dưới đầu đề “Các Tiên Tri hậu” và đặt sau phần Yôsua. Các Vua, được gọi là “Các Tiên Tri tiền”. Thánh kinh Hilạp lại theo một thứ tự khác, đặt các sách tiên tri sau phần “Các thư trước” và thêm vào sách Baruk, sau Yêrêmya, Thư của Yêrêmya sau Ai ca và Đaniel. Bản Vulg. cũng theo thứ tự này trong phần chính yếu, nhưng lại đặt mười hai tiên tri “nhỏ” sau bốn tiên tri “lớn” và gộp thư của Yêrêmya vào sách Baruk, đặt sau Ai ca.

            Tiên tri

            Những người được gọi là tiên tri, tiếng Hipri gọi là Nabi. Tiếng này có thể bởi một tiếng gốc có nghĩa là “gọi, loan báo”. Nabi sẽ là người được gọi hay người loan báo. Cả hai nghĩa này đều nói lên cái cốt thiết của tiên tri trong Israel. Tiên tri là sứ giả và là người đạo đạt lời của Thiên Chúa. Aharôn là người phát ngôn của Môsê, là “miệng” của Môsê và Môsê là “như Thiên Chúa” ứng cho Aharôn nói, Xh 4 15-16 và 7 1 : Môsê là “thần trên Pharaô” và Aharôn “là tiên tri”, Nabi, của ông. Và lời của Yavê phán với Yêrêmya : “Này Ta đặt lời lẽ của Ta trong miệng ngươi”, Yr 1 9. Các tiên tri có ý thức là tín thư họ loan báo phát xuất từ Thiên Chúa.

            Lời lẽ Yavê đặt nơi miệng họ, họ không thể không nói ra : “Yavê phán, ai lại không nói tiên tri ?” Am 3 8. Một ngày nào đó trong cuộc đời của họ, họ đã được Thiên Chúa kêu gọi và họ không cưỡng lại được, Am 7 15 Ys 6, nhất là Yr 1 4-10, họ được chọn làm sứ giả của Người, Ys 6 8. Họ đã được sai để nói lên ý định của Thiên Chúa và để chính họ trở nên những “dấu chỉ”. Họ “nói tiên tri” không phải chỉ bằng lời, bằng hành động mà bằng cả đời sống của họ. Cuộc hôn nhân đau đớn của Hôsê là một biểu tượng, Hs 1-3 ; Ysaya đã phải dạo quanh, trần truồng để làm một dấu hiệu, Ys 20 3, chính ông và con cái ông đã là “những dấu chỉ lạ lùng”, Ys 8 18 ; cuộc đời của Yêrêmya là một giáo huấn, Yr 16, và khi Êzêkiel thi hành những mệnh lệnh kỳ lạ của Thiên Chúa, ông là “dấu cho nhà Israel” Ez 4 3 12 6 11 24 24.

            Tín thư của Thiên Chúa có thể đến với tiên tri bằng nhiều cách, trong một thị kiến như thị kiến của Ys 6 hay của Ez 1 2 8… của Đn 8-12, của Za 1-6, ít khi bằng thị kiến ban đêm, coi Ds 12 6 cũng như trong Đn 7 Za 1 8t, bởi nghe được, nhưng thường xuyên hơn cả, bởi sự linh ứng bên trong, đôi khi bất ngờ, đôi khi trong những hoàn cảnh hết sức thường tình, Yr 1 11 24 hay 18 1-4. Và tiên tri loan truyền tín thư nhận được cũng bằng nhiều cách thức khác nhau, qua những bài thơ trữ tình hay những trình thuật bằng văn xuôi, qua những ngụ ngôn hay nói trắng ra, qua điệu văn ngắn gọn của các câu sấm nhưng cũng không loại trừ một hình thức văn chương nào : Châm biếm, Giảng thuyết, Ai ca…

            Sự khác nhau trong cách thức đón nhận cũng như loan báo tín thư một phần lớn tùy thuộc vào tính khí và tài năng của mỗi tiên tri. Nhưng mọi tiên tri đích thực đều có ý thức rõ ràng rằng, mình chỉ là một công cụ và những lời họ nói ra vừa là của họ lại vừa không phải là của họ. Họ xác tín rằng họ đã lãnh nhận lời từ Thiên Chúa và họ phải rao truyền. Xác tín này đặt nền tảng trên một kinh nghiệm huyền bí về một sự tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa. Và điều này xảy ra là sự chiếm hữu này của Thiên Chúa đã làm nảy sinh nơi tiên tri, những thái độ “không bình thường”, đặt họ trong một tình trạng tâm lý “siêu bình thường”. Sự kiện này làm họ khác với những người được thần hứng khác, các thi sĩ chẳng hạn.

            Tiên tri họa hoằn mới loan báo tín thư với một cá nhân, trừ trường hợp với vua, trong tính cách là vị lãnh đạo của dân. Tín thư của họ được ngỏ cùng toàn dân, họ được sai đến với dân, Am 7 15 Ys 6 9 Ez 2 3, với mọi dân, như trường hợp Yêrêmya, Yr 1 10.

            Tín thư của các tiên tri liên quan đến hiện tại và tương lai. Họ thông đạt với người đương thời những ý định của Thiên Chúa. Họ có thể loan báo một biến cố sắp đến như một dấu chỉ mà sự thể hiện sẽ chứng nhận cho lời nói và sứ vụ của họ, 1S 10 1t Ys 7 14 Yr 28 15t 44 29-30 ; họ báo trước họa tai như một hình phạt những lỗi lầm họ công kích, sự giải thoát như phần thưởng cho sự trở lại họ kêu gọi. Tuy nhiên, vì tiên tri chỉ là công cụ, tín thư họ loan báo có thể vượt lên trên hoàn cảnh và cả ý thức của tiên tri và chỉ được sáng tỏ khi được thể hiện trong tương lai.

Tín thư của tiên tri thường lưỡng diện, vừa nghiêm khắc, vừa có tính cách trấn an. Thật vậy, tín thư ấy thường có vẻ cứng cỏi, đầy những đe dọa và trách cứ đến cái độ người ta coi cái tính cách nghiêm khắc này như là một dấu chứng thực lời tiên tri là đích thực, Yr 28 8-9, coi Yr 26 16-19 1V 22 8. Bởi vì tội lỗi, cản trở cho ý định của Thiên Chúa, hằng ám ảnh tâm trí tiên tri. Nhưng nhãn giới về sự giải thoát không bao giờ bị đóng kín, và niềm vui mừng cũng là nội dung của tín thư tiên tri rao báo, Am 9 8-15 Hs 2 16-25 11 8-12 14 2-9 và Ys 40-55. Trong cách Thiên Chúa cư xử với dân Người, ân sủng và hình phạt bổ túc cho nhau.

            Tiên tri được sai đến với dân tộc Israel, nhưng đôi khi họ cũng tuyên sấm chống lại các dân lân cận hay các dân tộc, Ys 13-23 Yr 46-51 Ez 25-32.

            Vị tiên tri có ý thức mình tuyên sấm nhân danh Thiên Chúa. Nhưng người ta làm sao nhận ra, làm sao phân biệt được tiên tri thật với tiên tri giả, vì quả thực có những tiên tri giả, (coi 1V 22 8 Yr 28 Ez 13). Theo Thánh kinh, có hai tiêu chuẩn : Lời tiên tri được ứng nghiệm, Yr 28 9 Tl 18 22 và nhất là sự phù hợp giữa giáo huấn loan báo với giáo lý của đạo Yavê, Yr 23 22 Tl 13 2-6. Các đoạn Thứ luật này cho thấy tiên tri là một thể chế được tôn giáo chính thức nhìn nhận. Đôi khi, các tiên tri xuất hiện bên cạnh các tư tế, Yr 8 1 23 11 26 7 Za 7 3. Tiên tri Yêrêmya còn cho biết là tại Đền thờ Yêrusalem có một cái “phòng của Ben Yohanôn, người của Thiên Chúa”, hẳn là một tiên tri. Gần đây, người ta nghĩ rằng các tiên tri, kể cả các tiên tri lớn, thuộc thành phần nhân viên của Đền thờ và có một vai trò trong tế tự. Giả thuyết này xem ra đi quá các bản văn được dùng làm nền tảng, nhưng thiết tưởng cũng cần phải nhìn nhận rằng, có một sự liên lạc nào đó giữa các tiên tri và các trung tâm của đời sống tôn giáo và có ảnh hưởng của nền phụng vụ trên việc soạn tác một số các lời sấm của các tiên tri, nhất là Habacuc, Zacarya và Yôel.

            Nói tóm lại, tiên tri là một người có một kinh nghiệm trực tiếp về Thiên Chúa, đã lãnh nhận mạc khải về sự thánh thiện và ý định của Người, phê phán hiện tại và thấy trước tương lai qua ánh sáng của Thiên Chúa và được Người sai đi để nhắc nhở lại cho con người những đòi hỏi của Người, đưa họ về lại con đường vâng phục và yêu mến Người. Hiểu như thế, tiên tri, mặc dù có những điểm giống với các hiện tượng tôn giáo của các tôn giáo khác hay nơi các dân tộc lân cận, vẫn là một hiện tượng của riêng Israel, một trong những cách thức Quan phòng của Thiên Chúa trong việc dẫn dắt dân được tuyển chọn.

Phong trào tiên tri

            Nếu đó là tính chất và vai trò của tiên tri, thì chúng ta không lấy làm lạ khi Thánh kinh đặt Môsê đứng đầu hàng các tiên tri, Tl 18 15 18, và coi ngài như vị tiên tri lớn nhất, Ds 12 6-8 Tl 34 10-12. Những người thừa hưởng những ân huệ của Môsê không thiếu trong Israel, khởi đầu là Yôsua, Ds 27 18, rồi Đêbôrah, Thp 4-5, và một tiên tri vô danh, Thp 6 8 ; rồi Samuel, 1S 3 20 9 9, coi 2Ks 35 18. Lúc này, tinh thần tiên tri được phát triển thành những nhóm người được thần hứng, 1S 10 5 19 20, rồi thành những cộng đoàn “anh em tiên tri”, 2V 2 ; sau đó, các hiệp hội tiên tri này biến đi, nhưng mãi tới sau Lưu đày, Thánh kinh vẫn dùng số nhiều khi nhắc đến các tiên tri, Za 7 3. Ngoài các cộng đoàn này, chúng ta còn thấy xuất hiện những nhân vật khá nổi : Gat, tiên tri của Đavit, 1S 22 5 2S 24 11, Natan, 2S 7 2 1V 1 11t, Akhiya, 1V 11 29t 14 2t, Yêhu, 1V 16 7, Êlya và Êlisa, 1V 17 tới 2V 13

            Các tiên tri này, chúng ta chỉ biết đến, phần lớn, nhờ các bản văn có nhắc tới họ. Những tiên tri được biết rõ nhất, là các tiên tri thuộc qui điển. Các tiên tri này can thiệp trong những giai đoạn khủng hoảng đi trước hoặc kèm theo những khúc quặt lớn của lịch sử dân tộc : Mối đe dọa của Assur và sự sụp đổ của vương quốc phía Bắc, sự sụp đổ của vương quốc Yuđa và đi đày, cuối thời Lưu đày và hồi hương. Họ không ngỏ lời với vua mà là với dân và bởi vì tín thư của họ có tầm mức rộng lớn ấy, nên đã được ghi lại và tiếp tục có ảnh hưởng. Amos, tiên tri đầu tiên trong loại này, hoạt động vào giữa thế kỷ VIII, khoảng 50 năm sau khi Êlisa qua đời và phong trào tiên tri lớn sẽ kéo dài cho tới Lưu đày, ngót hai thế kỉ và được đánh dấu bởi những khuôn mặt lớn của Ysaya và Yêrêmya và của cả Hôsê, Mica, Nahum, Sôphônya, Habacuc. Tiên tri Êzêkiel khởi đầu khi sứ vụ của Yêrêmya gần chấm dứt. Nhưng với vị tiên tri của Lưu đày này, giọng điệu đã thay đổi : Ít bộc phát và kém hùng hồn, những thị kiến vĩ đại nhưng phức tạp, những bức họa tỉ mỉ. Mối quan tâm mỗi ngày mỗi lớn về thời sau hết, tóm lại, những nét báo hiệu cho một nền văn chương khải huyền. Các tiên tri của giai đoạn hồi hương : Haggai, Zacarya có một chân trời hạn hẹp hơn : Họ quan tâm tới việc khôi phục Đền thờ. Sau họ, Malaki nhấn mạnh đến những khuyết điểm của cộng đoàn mới. Rồi đến Yôna sử dụng các bản văn cũ để loan báo một giáo huấn mới. Mạch khải huyền được Êzêkiel khai mào đã vọt lên lần nữa trong Yôel và phần thứ hai của Zacarya, tràn vào sách Đaniel. Tới đây, nguồn thần hứng tiên tri xem ra đã cạn và Za 13 2-6 thấy trước sự mai một của thể chế tiên tri. Nhưng Yô 3 1-5 loan báo : Thánh linh được đổ tràn vào thời Cứu Chuộc. Thời mới này sẽ được Yoan Tẩy giả, vị tiên tri cuối cùng của Lề luật cũ, “tiên tri và còn hơn tiên tri”, Mt 11 9 Lc 7 26, loan báo.

Giáo lý của các tiên tri

            Trong sự phát triển về mặt tôn giáo của Israel, các tiên tri đã đóng một vai trò quan trọng. Không phải các ngài chỉ gìn giữ và hướng dẫn dân trong con đường của đạo Yavê đích thực, mà các ngài còn là những bộ phận của Mạc khải tiệm tiến. Trong hành động muôn hình vạn trạng này, mỗi vị đã có một vai trò riêng biệt và một đóng góp đặc biệt cho lâu đài giáo lý này. Nhưng các sự đóng góp này đã phối hợp với nhau theo ba đường hướng chính : Độc thần, một nền luân lý, sự đợi chờ Ơn Cứu Chuộc, những điểm đặc sắc của tôn giáo Cựu Ước.

            Độc thần. Israel chỉ dần dần đi đến một định nghĩa triết học về Độc Thần : Quả quyết về sự hiện hữu của một Thiên Chúa độc nhất, phủ nhận hiện hữu của mọi Thần linh khác. Trong một khoảng thời gian rất dài, người ta đã chấp nhận ý tưởng các dân tộc khác có thể có các thần khác, nhưng người ta không quan tâm tới : Israel chỉ nhìn nhận có một mình Yavê, quyền thế hơn hết các thần, Đấng chỉ chấp nhận cho Israel tôn thờ một mình Người. Sự biến chuyển từ ý thức về độc thần này sang một định nghĩa trừu tượng về Độc Thần là thành quả của việc rao giảng của các tiên tri. Khi tiên tri Amos trình bày Yavê như Thiên Chúa điều khiển mọi sức lực của thiên nhiên, làm chủ trên con người và trên mọi biến cố, tiên tri chỉ nhắc lại các chân lý xưa để cho những lời đe dọa của mình thêm nặng ký. Nhưng nội dung và hậu quả của lòng tin cũ này được xác nhận mỗi ngày mỗi rõ hơn. Việc mạc khải của Thiên Chúa tại Sinai được gắn liền với việc tuyển chọn dân và việc ký kết Giao ước, và bởi đó Yavê xuất hiện như Thiên Chúa riêng của Israel, gắn liền với đất và với Đền thờ của Israel. Trong khi nhấn mạnh đến những liên lạc giữa Yavê và dân của Người, các tiên tri cho thấy Người cũng hướng dẫn vận mệnh của các dân tộc khác, Am 9 7. Người phán xét các quốc gia nhỏ và các Đế quốc lớn, Am 1-2, Người ban cho họ quyền năng và Người lấy lại, Yr 27 5-8, Người dùng họ như khí cụ để oán trả, Am 6 11 Ys 7 18-19 10 6 Yr 5 15-17, nhưng Người cầm giữ họ lại khi Người muốn, Ys 10 12. Và Người cũng không lệ thuộc vào Israel, Mi 3 12 Yr 7 12-14 26 Ez 10 18-22 11 22-23.

            Yavê, chủ của vũ trụ, đã không để chỗ cho các thần khác. Các tiên tri quả quyết về sự bất lực của các thần giả, tính cách hư vô của các thần tượng, Hs 2 7-15  7-15 Yr 2 5-13 27-28 5 7 16 20, nhất là trong thời Lưu đày, Ys 40 10-20 41 6-7 21-22.

            Thiên Chúa là Đấng siêu việt. Các tiên tri đã rao giảng tính cách siêu việt này của Thiên Chúa khi nói Người là Đấng “Thánh”, một trong những đề tài được quí chuộng của Ysaya, Ys 6…, và của Hôsê, Hs 11 9 coi Ys 40 25 41 14 16 20… Yr 50 29 51 5 Ha 1 12 3 3. Người vượt lên trên con cái loài người, nhưng lại rất gần bởi lòng nhân từ và yêu thương. Sự gần gũi này được diễn tả qua nhiều hình ảnh, nhất là hình ảnh hôn nhân, Hs 2 Yr 2 2-7 3 6-8 Ez 1623.

            Luân lý. Đối chọi với sự Thánh Thiện của Thiên Chúa là sự nhơ uế của con người, Ys 6 5, và trong sự tương phản này, các tiên tri đã có một ý thức sâu sắc về tội lỗi. Nền luân lý này đã được ghi trong Thập giới rồi và các tiên tri đã không ngừng nêu lên : Chính tội lỗi làm con người xa Thiên Chúa, Ys 59 2. Tội lỗi phạm đến Thiên Chúa Công Bằng (Amos). Với Thiên Chúa Tình Thương (Hôsê), tới Thiên Chúa Thánh thiện (Ysaya). Đối với Yêrêmya, cả dân tộc đã chìm trong tội lỗi, không phương hối cải, Yr 13 23. Tội lỗi kéo đến hình phạt, và sự phán xét trong “Ngày của Yavê”, Ys 2 6-22 5 18-20 Hs 5 9-14 Yl 2 1-2 Sô 1 14-18. Và, cũng đối với Yêrêmya, việc loan báo họa tai là một dấu của một lời tiên tri đích thực, Yr 28 8-9. Tội lỗi tập thể kéo xuống hình phạt tập thể ; tuy nhiên việc thưởng phạt cá nhân cũng đã bắt đầu xuất hiện trong Yr 31 29-30 (coi Tl 24 16) và được quả quyết trong Ez 18 coi 33 10-20.

            Để tránh hình phạt, phải “tìm kiếm Thiên Chúa”, Am 5 4 Yr 50 4 Sô 2 3, nghĩa là thi hành những phán quyết của Người, đi theo đường chính trực, sống trong khiêm nhường, coi Ys 1 17 Am 5 24 Hs 10 12 Mi 6 8. Điều Thiên Chúa đòi hỏi đó là lòng đạo, tôn giáo bên trong được Yêrêmya nêu lên như một điều kiện của Giao ước mới, Yr 31 31-34. Các tiên tri hằng chống lại tinh thần vụ nghi lễ xa lạ với đời sống luân lý, Ys 1 11-17 Yr 6 20 Hs 6 6 Mi 6 6-8.

            Chờ đợi Cứu Chuộc. Nhưng hình phạt chưa phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa, Đấng hoàn tất những lời Người đã hứa mặc dù những bội phản của dân. Người sẽ tha cho một “Số sót”, Ys 4 3. Số sót sẽ thoát khỏi hiểm họa hiện tại và sẽ được hưởng sự cứu thoát. Họ là nhóm người sống sót sau mỗi thử thách : Những dân cư được để lại Israel hay Yuđa sau khi Samari sụp đổ hay sau cuộc xâm lăng của Sennakêrib, Am 5 15 Ys 37 31-32, những người bị đưa đi đày ở Babylon sau khi Yêrusalem thất thủ, Yr 24 8, Cộng đoàn trở lại Phalệtin sau Lưu đày, Za 8 6 11 12. Và nhóm này, trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, là mầm mống của một dân thánh tương lai được hứa ban, Ys 11 10 37 31 Mi 4 7 5 6-7 Ez 37 12-14 Za 8 11-13.

            Tương lai ấy sẽ là một thời thịnh vượng vật chất, Ys 30 23-26 32 15-17. Nhưng sự thịnh vượng vật chất này mới chỉ là một hiện tượng đi kèm sự thiết lập “Nước Thiên Chúa”, trong một bầu khí tinh thần : Công chính và Thánh thiện, Ys 29 19-24, sự trở lại bên trong và ơn tha thứ của Thiên Chúa Yr 31 31-34, sự nhận biết Thiên Chúa, Ys 2 3 11 9 Yr 31 34, an bình và vui mừng, Ys 2 4 9 6 11 6-8 29 19.

            Để thiết lập và cai quản Nước của Người trên đất, Vua Yavê sẽ có một người đại diện, ông sẽ được xức dầu và trở thành “người được xức dầu” của Yavê, “Mêsia” theo tiếng Hipri. Vị Mêsia sẽ thuộc dòng dõi Đavit Ys 11 1 Yr 23 5, Người sẽ xuất phát từ Bêlem-Êphrata, Mi 5 1, sẽ lãnh lấy những tước hiệu cao quý nhất, Ys 9 5, và thần khí của Yavê sẽ đậu trên ngài, Ys 11 1-5. Đối với Ysaya, ngài sẽ là Emmanuel “Thiên Chúa ở với chúng ta”, Ys 7 14 ; đối với Yêrêmya, “Yavê là đức nghĩa của chúng ta”, Yr 23 6.

            Lòng tin tưởng này còn đứng vững, mặc dù mộng bá chủ trần gian sụp đổ và bài học đau thương của Lưu đày. Nhưng nhãn giới có thay đổi. Êzêkiel trông chờ một Đavit mới, nhưng ông không còn gọi là “vua” nữa. Vị Đavit mới này đã được tả như một người trung gian, người mục tử, Ez 34 23-24 37 24-25 ; Zacarya còn nói đến vua, nhưng là một vua khiêm nhường và chuộng hòa bình, Za 9 9-10. Trong Ysaya thứ hai, người được xức dầu của Yavê không phải là một vua thuộc dòng họ Đavit, mà là vua Batư, Kyrô, Ys 45 1, phương tiện Thiên Chúa dùng để giải thoát dân của Người ; nhưng cũng chính vị tiên tri này đã đưa ra một dung mạo khác trong việc cứu thoát, người tôi tớ Yavê, thầy của dân, ánh sáng của muôn dân, rao giảng quyền của Thiên Chúa trong hòa dịu và hiền lành. Ngài sẽ bị dân Ngài khước từ nhưng Ngài sẽ đem lại cho họ sự giải thoát với giá của chính mạng sống Ngài, Ys 42 1-8 49 1-9 50 4-9 và nhất là 52 13 53 12. Và cuối cùng, Đaniel thấy Ngài đến trên mây trời như Con Người, lãnh nhận từ Thiên Chúa, uy quyền trên mọi dân nước, Đn 7. Và Cộng đoàn Kitô-hữu tiên khởi đã đưa về Đức Yêsu tất cả các đoạn tiên tri này.

Các sách tiên tri

            Tiên tri không phải là một nhà viết văn, mà là người giảng thuyết, nhà hùng biện. Vậy tín thư được rao giảng này đã được viết thành sách như thế nào ?

            Có thể là chính các tiên tri đã viết hoặc đọc cho người khác viết một phần những lời tiên tri, hoặc những trình thuật về kinh nghiệm của các ngài. Trường hợp này, chúng ta thấy rõ trong sách của Yêrêmya. Tiên tri đã đọc cho Baruk, Yr 36 4, mọi lời ông đã tuyên nhân danh Yavê trong vòng 23 năm, coi Yr 25 3. Sưu tập đã bị đốt đi, Yr 36 23, và một cuộn mới được chính Baruk viết, Yr 36 32. Hoặc các môn đệ hay những nơi thân cận của vị tiên tri giữ lại những truyền thống truyền khẩu, những ký ức về tiên tri, những ký ức này có kèm theo những câu sấm. Và từ những yếu tố này, những sưu tập thành hình, và được đọc, được suy gẫm, trở thành một cái gì sống động nuôi dưỡng lòng tin, lòng đạo của các cộng đồng sốt sắng.

                                    YSAYA

                                    TIỂU DẪN

            Tiên tri Ysaya sinh vào khoảng 765 trước Công nguyên. Vào năm 740, ông lãnh nhận sứ vụ tiên tri của ông, sứ vụ loan báo sự sụp đổ của Israel và của Yuđa, hình phạt những bất trung của dân, 6 1-13. Ông thi hành sứ vụ của ông trong vòng 40 năm, thời gian cơn đe dọa mỗi ngày mỗi lớn của Assur đè nặng trên Israel và Yuđa. Chúng ta có thể chia ra làm bốn giai đoạn. 1) Từ đầu sứ vụ tới ngày Akhaz lên ngôi năm -736 ; Ysaya quan tâm đặc biệt đến sự đồi trụy về mặt luân lý do cảnh thịnh vượng đã đem lại cho Yuđa, 1-5 một phần lớn. – 2) Vua Đama, Raxôn và vua Israel, Pêqakh, muốn lôi kéo Akhaz vào một liên minh chống lại Têglat Phalasar III, vua Assur. Akhaz từ chối và đã bị hai vua này tấn công. Akhaz cầu cứu Assur. Ysaya đã can thiệp chống lại nền chính trị quá phàm tục này, nhưng vô hiệu : 7 1-11 9 và 28 1-4. Sau cuộc thất bại này, Ysaya rút lui, coi 8 16-18 – 3) Yuđa bị lệ thuộc Assur, vương quốc phía Bắc đi tới chỗ sụp đổ, và năm -721, Samari rơi vào tay người Assur. Tại Yuđa, Êzêkya nối ngôi Akhaz. Êzêkya là một ông vua đạo đức, có tinh thần cải tiến nhưng những âm mưu chính trị lại nổi lên, và ông đã cầu cứu Aicập chống lại Assur. Ysaya muốn người ta từ khước mọi liên minh quân sự và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa : 14 28-32 18 20 28 7-22 29 1-14 30 8 17. Sau cuộc nổi dậy bị đè bẹp và Asđođ bị Sargon chiến, 20, Ysaya rơi vào thinh lặng. – 4) Ông xuất hiện lại vào năm -705 khi Êzêkya bị lôi cuốn vào cuộc nổi dậy chống Assur. Sênnakêrib tàn phá Phalệtin năm -701, nhưng vua Yuđa muốn bảo vệ Yêrusalem. Ysaya ủng hộ ông và loan báo Thiên Chúa sẽ trợ giúp, và Yêrusalem được giải thoát : 1 4-9 (?) 10 5-15 27b-32 14 24-27 và các đoạn trong 28-32 không đưa về giai đoạn trên. Chúng ta không còn biết gì về Ysaya sau năm -700. Theo một truyền thống Dothái, thì ông đã bị giết dưới triều Manassê.

            Ysaya được coi là anh hùng quốc gia vì sự tham gia tích cực của ông vào những vấn đề của xứ sở. Nhưng ông cũng là một thi sĩ có biệt tài. Nhưng chiều hướng tôn giáo vẫn là điều nổi bật nơi ông. Ysaya luôn luôn mang ấn tượng của cảnh ông được kêu gọi trong Đền thờ, trong đó ông được mạc khải về tính cách siêu việt của Thiên Chúa và sự bất xứng của con người. Đến với ông, Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng Mạnh, Đấng Quyền Phép, là Vua. Con người là một thực thể bị tội lỗi làm ra nhơ uế và Thiên Chúa đòi phải đền tội. Bởi, Người đòi hỏi sự công bằng trong những liên lạc xã hội và sự chân thành trong tế tự dâng lên Người. Ysaya là tiên tri của lòng tin và trong những cuộc khủng hoảng của dân tộc, ông đòi hỏi mọi người chỉ tin tưởng nơi một mình Thiên Chúa : Đó là cơ may giải thoát duy nhất. Ông biết là sự thử thách sẽ nặng nề nhưng ông trông cậy một “số sót” sẽ được dung tha và Đấng Mêsia sẽ là vua của họ. Vị Mêsia ấy thuộc dòng dõi Đavit và sẽ thiết lập trên trần gian hòa bình và công bằng, sẽ loan truyền sự hiểu biết Thiên Chúa, 2 1-5 7 10-17 9 1-6 11 1-9 28 16-17.

            Sách mang tên ông là kết quả của một công trình soạn tác dài. Bố cục cuối cùng gợi lại bố cục của Yêrêmya (theo Hilạp) và của Êzêkiel : 1-12 sấm ngôn chống lại Yêrusalem và Yuđa ; 13-23, sấm ngôn chống lại các dân ; 24-35, các lời hứa. Nhưng bố cục này không cứng ngắc. Việc phân tích cho thấy sách đã không hoàn toàn theo thứ tự thời gian của sứ vụ của tiên tri, nhưng đã được thành hình từ nhiều sưu tập sấm ngôn. Một số lên tới chính vị tiên tri, coi 8 16 30 8. Các đồ đệ của ông đã thu tập một số khác, đôi khi chú thích những lời của thày hoặc thêm vào. Các sấm ngôn chống các dân tộc, được gộp lại trong 13-23, đã lãnh nhận thêm một số khác muộn hơn, cách riêng 13-14 chống Babylon. Các phần thêm khác rộng lớn hơn là : “Khải huyền của Ysaya”, 24-27 ; một nền phụng vụ tiên tri sau Lưu đày, 33 ; “Khải huyền nhỏ”, 34-35, tùy thuộc Ysaya thứ hai. Cuối cùng, đã được đặt trong phần phụ chương trình thuật về hành động của Ysaya trong cuộc tiến quân của Sennakêrib, 36-39, mượn của 2V 18-19 và một Thánh vịnh thuộc thời sau Lưu đày đặt nơi miệng Êzêkya, 38 9-20.

            Các chương 40-55 cũng không thể là công trình của tiên tri của thế kỷ VIII. Không phải chỉ vì tên của ông không được nhắc đến mà còn vì là khung cảnh lịch sử là khung cảnh của ít là hai thế kỷ sau ; Yêrusalem đã bị thất thủ, dân đã bị đưa đi đày ở Babylon, Kyrô đã xuất hiện và sẽ là công cụ của cuộc giải thoát. Các chương này chứa đựng lời giảng dạy của một người vô danh, một người tiếp tục Ysaya và tiên tri lớn, thường được gọi là Ysaya Thứ hoặc Ysaya thứ hai. Ông đã rao giảng tại Babylon vào khoảng thời gian giữa các chiến thắng đầu tiên của Kyrô, năm -550 và sắc chỉ giải thoát năm -538 mở đầu cho các đợt trở về đầu tiên. Sưu tập này có tính cách thống nhất hơn là các chương 1-39, mở đầu bằng một thứ trình thuật về ơn kêu gọi tiên tri, 40 1-11, và kết thúc bằng một kết luận, 55 6-13.

            Đề tài chính của phần này là “an ủi”. Quả thực, các sấm ngôn trong các Ch. 1-39 thường có giọng đe dọa và có nhiều ám chỉ đến những biến cố dưới các triều Akhaz và Êzêkya. Còn các sấm ngôn trong các Ch. 40-55 được tách ra khỏi khung cảnh lịch sử này và có giọng đầy an ủi. Phán xét đã được hoàn tất qua sự sụp đổ của Yêrusalem và thời khôi phục đã kề bên. Đó sẽ là một sự đổi mới hoàn toàn và khía cạnh này đã được nhấn mạnh bằng tầm mức quan trọng dành cho đề tài về Thiên Chúa tạo dựng đi liền với đề tài về Thiên Chúa cứu chuộc. Một cuộc Xuất hành mới mẻ sẽ đưa dân trở về lại một Yêrusalem mới, đẹp hơn Yêrusalem thứ nhất. Sự tách biệt giữa hai thời, thời của “những việc đã qua” và thời của “những việc sẽ tới” mở đầu cho Giáo lý về Cánh Chung. Trong phần này, giáo lý về độc thần được quả quyết một cách lý thuyết và tính cách hư vô của các tà thần cùng được minh chứng bằng sự bất lực của các tà thần này. Sự Khôn ngoan và quan phòng không sao dò thấu của Thiên Chúa cũng được đề cao. Tính cách đại đồng về mặt tôn giáo cũng được diễn tả một cách rõ ràng và đây là lần thứ nhất.

            Bốn đoạn thơ, “Những bài ca của người Tôi Tớ”, 42 1-4 49 1-6 50 4-9 52 13-53 12. Bốn bài này trình bày dung mạo của một người tôi tớ trọn hảo của Yavê, quy tụ dân của Thiên Chúa, ánh sáng của các dân tộc, rao giảng lòng tin đích thực, chịu chết để tẩy xóa tội lỗi của dân và được Thiên Chúa tôn dương. Các học giả chưa đồng ý với nhau về nguồn gốc và ý nghĩa của các đoạn này. Ysaya thứ hai có thể là tác giả của ba bài đầu và bài thứ tư là công trình của một đồ đệ của ông. Người Tôi tớ có thể là cộng đồng Israel, nhưng đa số nhà chú giải hiện nay nhìn nhận nơi người Tôi tớ dung mạo của một nhân vật lịch sử của thời quá khứ hay hiện tại, cũng có thể là chính Ysaya thứ hai, hay một nhân vật mang nơi mình vận mệnh của cả dân. Đức Yêsu đã đưa về Ngài những đoạn văn về Người Tôi tớ đau khổ, Lc 22 19-20 37 Mc 10 45 và Giáo hội tiên khởi đã nhận ra nơi Đức Yêsu, Người Tôi tớ trọn hảo được Ysaya thứ hai loan báo, Mt 12 17-21 Yn 1 29.

            Các Ch. 56-66 đã được coi như là công trình của một vị tiên tri khác, được gọi là “Trito-Ysaya”, Ysaya thứ ba. Hiện tại, người ta nhận ra tính cách hỗn tạp của các Ch. này. Thánh vịnh trong 63 7-64 11, xem ra trước cuộc Lưu đày ; sấm Ngôn 66 1-4, có thể cùng thời với việc tái dựng Đền thờ vào khoảng năm 520 trước Công nguyên. Tư tưởng và giọng văn của các Ch. 60-62 rất gần với Ysaya thứ hai. Các Ch. 56-59, chung chung, có thể đưa về thế kỷ V trước Công nguyên. Một số nhà chú giải đặt các Ch. 65-66 (trừ 66 1-4) vào thời Hilạp, một số khác lại đặt sau ngày đi Lưu đày về.

                                    YÊRÊMYA

                                    TIỂU DẪN

            Yêrêmya xuất thân từ một gia đình tư tế ở vùng phụ cận Yêrusalem khoảng một thế kỷ sau tiên tri Ysaya, năm -650 trước Công nguyên. Các trình thuật về sử hạnh của ông rải rác trong sách của ông cho chúng ta biết rõ về cuộc đời và tính tình của ông, theo thứ tự thời gian : 19 1-20 6 26 36 45 28-29 51 59-64 34 8-22 37-44. Các đoạn 11 18 12 6 15 10-21 17 4-18 18 18-23 20 7-18, phát xuất từ chính vị tiên tri. Các đoạn này không phải là một thứ tiểu sử tự thuật, mà là một dấu chứng về các cuộc khủng hoảng nội tâm ông đã trải qua. Được Thiên Chúa kêu gọi từ nhỏ, năm -626, năm thứ mười ba triều Yôsya, 1 2, ông đã sống cái giai đoạn bi đát của cuộc sụp đổ vương quốc Yuđa. Cuộc cải cách tôn giáo và sự khôi phục quốc gia dưới triều Yôsya đã khêu lên nhiều tin tưởng. Nhưng các niềm tin tưởng này sớm tiêu tan vì cái chết của vua Yôsya năm -609 và sự đảo lộn của thế giới phương đông, sự sụp đổ của Ninivê năm -612 và sự bành trướng của đế quốc Kanđê. Từ -605, Nabukôđônôsor đã đặt quyền thống trị trên Phalệtin và năm -597 ông chinh phục Yêrusalem và mang một số dân cư đi đày. Năm -587, đạo binh Kanđê lại trở lại sau một cuộc nổi loạn của Yêrusalem, và thành này bị chiếm, Đền thờ bị đốt phá và đợt phát lưu thứ hai xảy ra. Yêrêmya đã trải qua giai đoạn bi đát của lịch sử này, ông rao giảng, đe dọa, báo trước sự sụp đổ, cảnh cáo, nhưng vô hiệu, các vua bất tài kế tiếp nhau trên ngai Đavit, ông bị giới quân sự tố cáo là chủ bại rồi bị bỏ tù. Sau khi Yêrusalem thất thủ, ông chọn con đường ở lại Phalệtin bên cạnh Gôđôlya được người Kanđê đặt làm tổng trấn. Nhưng Gôlôđya đã bị ám sát và một nhóm người Dothái, sợ trả thù, đã chạy sang Aicập, kéo theo cả Yêrêmya. Hình như ông đã chết tại đây.

            Sự xâu xé giữa một tâm hồn dịu hiền, sinh ra để yêu mến, với một sứ vụ được sai đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá” 1 10 đã tẩy luyện lòng ông và mở lòng ông trước cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Điều khiến Yêrêmya gần gũi với chúng ta hơn cả ấy là lòng đạo thâm sâu và thân tình ông đã sống trước khi loan báo 31 31-34. Lòng đạo này đã khiến ông đào sâu Giáo huấn cổ truyền : Thiên Chúa dò xét lòng dạ, 11 20, Người trao trả cho mỗi người tùy theo hành động, 31 29-30 ; tình thân thiết với Thiên Chúa, 2 2, đã bị tội lỗi cắt đứt, 4 4 17 9 18 12.

            Sứ vụ của Yêrêmya quả đã thất bại lúc ông sinh tiền, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Bởi giáo lý của ông về một Giao ước mới, đặt nền tảng trên lòng đạo, tôn giáo nội tâm, ông đã là cha của Dothái-giáo trong cái nhìn tinh ròng nhất và người ta nhận ra ảnh hưởng của ông trong Êzêkiel, phần thứ hai của Ysaya và trong nhiều Thánh vịnh. Thời Macabê kể ông vào số những đấng bảo trợ của dân, 2M 2 1-8 15 12-16. Đặt giá trị tinh thần lên hàng đầu, nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa, Yêrêmya đã chuẩn bị cho Giao ước mới, và cuộc quên mình và đau khổ để phục vụ Thiên Chúa, đã biến ông thành một dung mạo của Đức Kytô.

            Ngoài những sấm ngôn bằng thể văn vần và những trình thuật sử hạnh, sách còn chứa đựng những diễn từ bằng văn xuôi với một giọng điệu gần với giọng của Thứ luật. Người ta cho rằng các diễn từ này do các soạn giả “Thứ luật” thời sau Lưu đày viết. Thật ra, giọng văn này là giọng văn của Yuđa trong thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI trước Công nguyên, và nền thần học của các diễn từ này là thần học của phong trào tôn giáo trong đó cả Yêrêmya và Thứ luật cùng sống. Các đoạn này là những âm hưởng đích thực của lời Yêrêmya rao giảng và được các người nghe ông thu tập lại. Nhưng sưu tập này đã được lưu truyền lại không phải dưới một hình thức duy nhất. Những khám phá tại Qumrân minh chứng là có hai bản hiệu đính cùng bằng tiếng Hipri. Bản dịch Hilạp dựa trên một bản hiệu đính ngắn hơn. Mặt khác, trong bản Hilạp, các lời sấm trên các dân tộc được đặt sau 25 13 trong khi đó, trong bản Hipri, lại được đặt ở cuối sách, 46-51. Có lẽ, các lời tiên tri này, khởi đầu làm thành một sưu tập riêng và không hẳn tất cả đều do tiên tri Yêrêmya : Các lời sấm trên Môab và Eđom đã được sửa lại khá kỹ và lời sấm trên Babylon, 50-51, thuộc thời cuối Lưu đày. Ch. 52 tự coi như một phụ chương về lịch sử, song song với 2V 24 18 25 30.

            Nhìn chung chung, sách có vẻ thiếu trật tự : Nhiều phần bổ túc được thêm vào, nhiều đoạn trùng nhau, các ghi chú về niên biểu không liên tục… Tình trạng thiếu trật tự này là kết quả của một việc soạn tác lâu dài khó mà vạch lại được các giai đoạn. Tuy nhiên, ch. 36 cho chúng ta một vài chỉ dẫn quý giá : năm -605, Yêrêmya đọc cho Baruk các lời sấm ông đã tuyên từ đầu sứ vụ của ông, 36 2, nghĩa là từ năm -626. Cuộn này đã bị Yôyaqim đốt đi, nhưng đã được viết lại và bổ túc, 36 32. Về nội dung của sưu tập này, chúng ta chỉ có thể đặt những giả thuyết, 25 1-12 có thể là phần dẫn nhập, sau đó là những lời sấm trước năm -605, nay nằm trong các ch. 1-18, và theo 36 2, và cả những lời sấm xưa chống lại các dân nằm trong 25 13-38. Các phần bổ túc được thêm vào sau đó là những lời sấm sau -605 và các lời sấm khác về các dân tộc, các “xưng thú” được đưa vào, và cũng được đưa vào đây nữa hai tập sách nhỏ về các Vua, 21 11 –23 8 và về các Tiên tri, 23 9-40.

            Như thế, chúng ta đã tách ra hai phần : Một phần chứa đựng những lời đe dọa Yuđa và Yêrusalem, 1 1 –25 13, phần khác là những lời tiên tri chống lại các dân, 25 13-38 và 46-51. Phần thứ ba, các ch. 26-35, giữ lại những đoạn có một giọng lạc quan hơn, hầu hết bằng văn xuôi, và một phần lớn là tiểu sử của Yêrêmya người ta gán cho Baruk. Thi khúc an ủi, 30-31, phải được đặt riêng. Phần bốn, 36-44 cũng bằng văn xuôi, tiếp tục tiểu sử Yêrêmya và chứa đựng một trình thuật những đau khổ của ông trong và sau khi Yêrusalem bị vây hãm. Phần này kết thúc với 45 1-5, được coi như chữ ký của Baruk.

Ai ca

            Thánh kinh Hipri đặt tập sách nhỏ này trong phần các “Thư trước” và kể như một trong năm “Mơgillôt”, năm “cuốn” được đọc trong những ngày lễ lớn. Thánh kinh Hilạp và bản Vulg. đặt sau Yêrêmya và trình bày như là tác phẩm của chính vị tiên tri này. Truyền thống này dựa trên 2Ks 35 25 và trên nội dung của các thi khúc đưa về thời của Yêrêmya. Nhưng việc gán ghép này không đứng vững. Vì Yêrêmya, như chúng ta biết qua những lời sấm đích thực của ông, không thể nói rằng nguồn thần hứng tiên tri đã cạn, 2 9, và ca ngợi Sêđêqya, 4 20 hay trông cậy vào sự trợ giúp của Aicập, 4 17. Mặt khác, một thiên tài bộc phát như của ông khó mà có thể đi đôi với một thể thi văn có tính cách gò bó và nặng phần kỹ thuật.

            Các Ai ca  1 2 4 theo thể văn của các bài điếu, ch. 3 là Ai ca cá nhân và ch. 5 là một Ai ca tập thể. Các Ai ca này có thể đã được soạn tại Phalệtin sau khi Yêrusalem bị sụp đổ năm -587. Có lẽ đây là công trình của một tác giả duy nhất đã tả lại cảnh tang tóc của thành phố và của dân cư, nhưng từ những lời ai oán này, người ta thấy tiết ra một niềm tin tưởng không thể lay chuyển nơi Thiên Chúa và một tâm tình thống hối thâm sâu. Đó là giá trị của tập sách nhỏ này, được người Dothái đọc trong kỳ chay lớn kính nhớ việc Đền thờ bị phá và được Giáo hội sử dụng trong Tuần Thánh để nhắc lại thảm kịch Núi Sọ.

                                    BARUK

            Sách Baruk là một trong những sách thuộc qui điển thứ không có trong Thánh kinh Hipri. Trong Thánh kinh Hilạp, sách Baruk được đặt giữa sách Yêrêmya và Ai ca, và trong bản Vulg., sau Ai ca. Theo lời mở đầu, 1 1-14, thì sách do Baruk, thư ký của Yêrêmya, viết tại Babylon sau cuộc phát lưu và được gửi đến Yêrusalem để đọc trong các nhóm hội phụng vụ. Sách gồm có : một lời nguyện xưng thú và tin tưởng, 1 15 –3 8, một thi khúc khôn ngoan, 3 9 –4 4, trong đó Khôn ngoan được đồng hóa với Lề luật, một đoạn tiên tri, 4 5 –5 9 trong đó chúng ta thấy Yêrusalem được nhân cách hóa, ngỏ lời cùng những kẻ đi đày và tiên tri ủy lạo bằng cách nhắc lại niềm tin tưởng vào thời cứu thoát.

            Lời mở đầu được viết bằng tiếng Hilạp. Lời nguyện 1 15 –3 8, khuếch trương lời nguyện trong Đn 9 4-19, chắc chắn có một nguyên bản bằng tiếng Hipri. Cũng vậy đối với hai đoạn khác. Niên biểu soạn tác cái nhiên nhất là giữa thế kỷ I trước Công nguyên.

            Thánh kinh Hilạp để riêng thư của Yêrêmya được bản Vulg. đặt trong sách Baruk. Đây là một bình luận có tính cách minh giáo, chống lại việc thờ thần tượng quảng diễn trong một giọng văn tầm thường, các đề tài đã được khai thác trong Yr 10 1-16 Ys 44 9-20. Bức thư xem ra được viết bằng tiếng Hipri trong thời kỳ Hilạp ; 2M 2 1-3 xem ra có ám chỉ đến.

            Một đoạn của bản bằng tiếng Hilạp được tìm thấy trong một hang Qumrân : Cổ tự học đặt vào khoảng năm -100 trước Công nguyên.

            Sưu tập hỗn tạp này đã đưa chúng ta vào các Cộng đoàn Dothái hải ngoại và cho chúng ta thấy đời sống tôn giáo tại đây đã được duy trì bởi những liên lạc với Yêrusalem, bởi việc cầu nguyện, tôn sùng Lề luật, tinh thần phục hận và niềm tin tưởng thời Mêsia như thế nào.

                                    ÊZÊKIEL

                                    TIỂU DẪN

            Khác với sách Yêrêmya, sách Êzêkiel có một bố cục chặt chẽ : Sau phần mở đầu, 1-3, trình bày việc tiên tri lãnh nhận sứ vụ từ Thiên Chúa, sách được chia ra làm bốn phần : 1) Các ch. 4-24 : Những lời quở trách và đe dọa người Israel trước khi Yêrusalem bị vây hãm ; 2) Các ch. 25-32 là những lời sấm chống các dân tộc. 3) Trong các ch. 33-39, tiên tri yên ủi dân với lời hứa một tương lai sáng sủa hơn ; 4) Cuối cùng trong các ch. 40-48, tiên tri báo trước thể chế chính trị và tôn giáo của cộng đoàn trong tương lai, được tái lập lại tại Phalệtin.

            Tuy nhiên, bố cục này cũng có nhiều kẽ hở. Có khá nhiều khúc trùng nhau, như 3 17-21 = 33 7-9 : 18 25-29 = 33 17-20 v.v. Trình thuật việc Êzêkiel bị Thiên Chúa đánh câm, 3 26 24 27 33 22, bị nhiều diễn từ dài cắt ngang. Thị kiến về xa giá của Thiên Chúa, 1 4-3 15, cũng bị cắt ngang bởi thị kiến về quyển sách, 2 1-3 9. Cũng vậy, đoạn tả tội lỗi của Yêrusalem, 11 1-21, nối tiếp ch. 8 cắt đứt trình thuật về sự khởi hành của xa giá của Thiên Chúa, khởi sự từ 10 22, tiếp tục nơi 11 22. Niên biểu đưa ra trong các ch. 26-33 không liên tục với nhau. Không thể có những sự vụng về này nếu đây là một tác phẩm do một tác giả viết thẳng một mạch. Cái nhiên hơn, những sự lủng củng này là do các đồ đệ phối hợp và bổ túc những văn kiện hay ký ức. Bởi vậy, một cách nào đó, có thể nói được là sách Êzêkiel cũng cùng số phận của các sách tiên tri khác. Những sự đều đặn về hình thức và nội dung cho chúng ta chắc được rằng các đồ đệ này đã duy trì một cách khá trung thực tư tưởng và chung chung, chính lời của thầy họ. Công việc soạn tác của họ thấy rõ trong phần cuối của sách, 40-48, nhưng nòng cốt vẫn là của Êzêkiel.

            Theo tình trạng hiện tại, thì Êzêkiel đã hoạt động giữa những người bị đày ở Babylon giữa các năm -593 và -571, coi 1 2 và 29 17. Người ta đã ngạc nhiên không ít, trong trường hợp này, khi thấy những lời sấm trong phần thứ nhất xem ra nói với những người ở Yêrusalem và đôi khi Êzêkiel như đích thân có mặt tại Yêrusalem, 11 13. Do đó người ta đã đặt giả thuyết Êzêkiel đã thi hành sứ vụ của ông ở tại hai nơi : Ông đã ở Phalệtin và đã giảng dạy tại đây cho tới sau khi Yêrusalem sụp đổ năm -587. Sau đó, ông tới với những người bị lưu đày ở Babylon. Thị kiến cuốn sách trong 2 1-3 9 đánh dấu ơn gọi của tiên tri tại Phalệtin, thị kiến về xe Thiên Chúa, 1 4-28 và 3 10-15 đánh dấu việc ông đến với những người đi đày. Việc đưa thị kiến này lên đầu sách đã thay đổi tất cả nhãn giới. Giả thuyết này đưa ra để trả lời cho một số khó khăn nhưng lại gây nên những khó khăn khác : Đòi phải sửa lại văn bản, phải chấp nhận rằng khi thi hành sứ vụ tại Phalệtin, Êzêkiel thường sống ngoài Yêrusalem (vì ông đã được “đem đến” đó, 8 3). Mặt khác, kể cũng lạ, nếu Êzêkiel và Yêrêmya cùng giảng dạy ở Yêrusalem, mà cả hai lại không có một lời nào ám chỉ về sứ vụ của đồng nghiệp của mình. Thực ra, không nên phóng đại những khó khăn trong giả thuyết của truyền thống : Những lời quở trách dân cư Yêrusalem dùng làm bài học cho những kẻ đi đày và, khi Êzêkiel xem ra ở trong Thành thánh, bản văn nói rõ là ông đã được đem đến đó “trong thị kiến”, 8 3, cũng như ông đã được đem về lại cũng “trong thị kiến”, 11 24.

            Dù nhận giả thuyết nào, ta cũng phải nhìn nhận là dung mạo lớn của Êzêkiel nổi bật lên trong sách mang tên ông. Êzêkiel là một tư tế, 1 3. Đền thờ là nỗi bận tâm chính yếu của ông, hoặc Đền thờ trong hiện tại bị những nghi lễ bất chính làm uế tạp, 8, và Danh Yavê rẫy từ, 10, hay Đền thờ trong tương lai, được tả một cách tỉ mỉ, 40-42, và tại đó, ông thấy Thiên Chúa trở lại, 43. Ông sùng kính Lề luật và trong đoạn 20 diễn lại những thất trung của Israel, lời quở trách “đã phạm thánh đến các Hưu lễ” được lặp đi lặp lại như một điệp khúc. Ông ghê tởm những điều uế tạp, 4 14 và hằng lo lắng phân biệt thánh thiêng với phàm tục, 45 1-6. Với tư cách tư tế, ông qui định những nố luân lý, 18. Tư tưởng và từ ngữ của ông rất quen thuộc với luật thánh thiêng, Lv 17-26. Tuy nhiên không thể minh chứng là ông đã dựa vào luật thánh thiêng hay ngược lại, những điểm đụng chạm tiêu biểu nhất nằm trong các đoạn thuộc soạn tác.

            Nhưng vị tư tế này cũng là một tiên tri trong hành động. Ông có nhiều cử chỉ tượng trưng hơn bất cứ một tiên tri nào khác. Ông làm điệu bộ diễn tả việc Yêrusalem bị vây hãm, 4 1-5 4, việc người lưu đày ra đi, 12 1-7, việc vua Babel đứng giữa ngã ba đường, 21 23t, sự phối hợp giữa Yuđa và Israel, 37 15. Đến cả những thử thách riêng tư Thiên Chúa gửi đến cho ông cũng là những “dấu chỉ” cho Israel, 24 24, cũng như trường hợp của Hôsê, Ysaya và Yêrêmya.

            Nhưng trước hết, Êzêkiel là một người linh thị. Tuy sách của ông chỉ có bốn thị kiến theo đúng nghĩa, nhưng các thị kiến này chiếm một chỗ rất quan trọng : 1-3 ; 8-11 ; 37 ; 40-48. Thêm vào đó, những bức tranh bóng bẩy : Hai chị em Ôhôla và Ôhôliba, 23, Tyrô bị đắm, 27, Pharaô – Thuồng luồng, 2932, cây khổng lồ, 31, xuống âm phủ, 32. Ngược lại, lời văn của Êzêkiel có vẻ buồn tẻ, lạnh lùng và nghèo nàn so với Ysaya hay Yêrêmya.

            Tuy nhiên, Êzêkiel đã mở ra một con đường mới. Ông cắt đứt với quá khứ của dân tộc. Ký ức về những lời hứa ban cho cha ông và về Giao ước thiết lập tại Sinai xuất hiện đôi khi, nhưng sở dĩ cho tới nay, Thiên Chúa đã cứu dân của Người nhiễm uế từ buổi đầu, 16 3t, hẳn không phải để làm trọn lời hứa, mà để bảo vệ danh dự của Danh Người, 20 ; Người có thay thế Giao ước cũ bằng một Giao ước đời đời, 16 60 37 26t, ấy không phải để thưởng dân đã trở về lại với Người mà là bởi lòng nhân từ nhưng không và sự trở lại chỉ đến sau đó, 16 62 63. Mêsia trong Êzêkiel không còn tính cách vương giả và hiển vinh : Ông loan báo một Đavit sẽ tới, nhưng Đavit này sẽ chỉ là “mục tử” của dân, 34 23 37 24, một “minh chủ”. Ông đoạn tuyệt với truyền thống về sự liên đới trong hình phạt và quả quyết về nguyên tắc thưởng phạt cá nhân, 18, coi 33. Giải đáp thần học tạm thời, thường bị những sự kiện minh chứng ngược lại, sẽ dần dần đưa tới ý tưởng về sự thưởng phạt đời sau. Là một tư tế gắn bó với Đền thờ, nhưng, như Yêrêmya, ông đoạn tuyệt với ý tưởng Thiên Chúa gắn liền với Thánh Điện của Người. Nơi ông, được phối hợp với nhau tinh thần tiên tri và tinh thần tư tế thường xung khắc nhau : Các nghi lễ có giá trị nhờ những tâm tình đặt trong các nghi lễ đó. Tất cả giáo huấn của Êzêkiel nhấn đến sự đổi mới bên trong : Phải làm lại một trái tim mới và một tinh thần mới, 18 31 hay phải hơn, chính Thiên Chúa sẽ ban cho một tấm lòng “khác”, một tấm lòng “mới”, và sẽ đặt trong con người một tinh thần “mới”, 11 19 36 26. Giáo huấn của Êzêkiel đưa chúng ta tới ngưỡng cửa của thần học ân sủng sẽ được Thánh Yoan và Phaolô khai triển.

            Việc tinh thần hóa mọi dữ kiện tôn giáo này là một sự đóng góp lớn của Êzêkiel. Khi người ta gọi ông là cha của Dothái-giáo, thường người ta vịn vào việc ông chú tâm về sự tách biệt với trần tục, về sự trong sạch theo Lề luật, về những nghi tiết tỉ mỉ và người ta nghĩ tới những người trong phái tách biệt. Nhưng đó là một điều bất công hoàn toàn : Một cách nào đó, như Yêrêmya, Êzêkiel là khởi đầu cho một luồng tinh thần rất tinh ròng chạy suốt Dothái-giáo và đổ vào Tân Ước. Đức Yêsu là mục tử tốt lành, Êzêkiel đã loan báo và Ngài đã khai mào sự tôn thờ trong thần khí mà ông đã kêu gọi.

                                    ĐANIEL

                                    TIỂU DẪN

            Xét về nội dung, sách Đaniel có thể được chia ra làm hai phần. Các ch. 1-6 là những trình thuật : Đaniel và ba người bạn của ông phục vụ Nabukôđônôsor, 1 ; giấc mộng của Nabukôđônôsor : Bức tượng hỗn tạp, 2 ; việc tôn thờ bức tượng vàng và ba người bạn của Đaniel trong lò lửa, 3 ; cơn điên khùng của Nabukôđônôsor, 4 ; bữa tiệc của Baltasar, 5 ; Đaniel trong hầm sư tử, 6. Trong mọi trường hợp trên, Đaniel hay các bạn của ông đã trải qua một cách toàn thắng cuộc thử thách liên quan tới sinh mạng hay ít ra danh dự của họ, và người ngoại ngợi khen Thiên Chúa, Đấng đã cứu họ. Các tấn kịch đã diễn ra tại Babylon dưới các triều của Nabukôđônôsor, của Baltasar và của Đarius người Mêđi. Các ch. 7-12 là những thị kiến : Bốn con vật, 7 ; con Cừu đực và con Dê đực, 8 ; bảy mươi tuần, 9 ; thị kiến lớn về Thời Phẫn nộ và Thời Kết thúc, 10-12. Các thị kiến này được ghi niên biểu thời các triều đại của Baltasar, của Đarius người Mêđi và của Kyrô, vua Batư, và tại Babylon.

            Từ sự phân chia này, đôi khi người ta đã đi đến kết luận là có hai tác phẩm thuộc các thời đại khác nhau và đã được một soạn giả đâu lại với nhau. Nhưng cũng có những dấu chứng khác ngược lại với sự phân biệt này. Các trình thuật đều ở ngôi thứ ba và các thị kiến cho chính Đaniel kể, nhưng thị kiến thứ nhất, 7, được đóng khung trong một nhập đề và một kết luận ở ngôi thứ ba. Đầu sách bằng tiếng Hipri nhưng từ 2 4 chuyển sang tiếng Aram cho tới cuối 7, tức là lấn cả sang phần các thị kiến ; các chương cuối lại bằng tiếng Hipri. Trước sự kiện này, có nhiều giả thuyết, nhưng không giả thuyết nào có giá trị quyết định. Sự phân biệt theo giọng văn (ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba) và sự phân biệt theo ngôn ngữ (Hipri hay Aram) không phù hợp với sự phân chia theo nội dung (trình thuật hay thị kiến). Mặt khác, ch. 7 được cắt nghĩa trong ch. 8, nhưng lại song song với ch. 2 ; ngôn ngữ Aram của ch. này cũng là ngôn ngữ của các ch. 2-4, nhưng những đặc điểm của điệu văn của ch. ấy lại thấy lại trong các ch. 8-12 mặc dù viết bằng tiếng Hipri. Vậy, ch. 7 này làm thành một dây liên lạc giữa hai phần và tạo ra sự thống nhất của sách. Đàng khác, Baltasar và Đarius người Mêđi xuất hiện trong hai phần của sách gây nên các khó khăn cho các sử gia. Sau cùng, các hình thức văn chương và lối suy tưởng thống nhất từ đầu tới cuối sách và sự đồng nhất này là lý mạnh nhất cho sự thống nhất trong soạn tác.

            Chương 11 là dấu chứng khá rõ ràng về niên biểu của soạn tác. Các trận chiến giữa Sêleukos và Lagos và một phần của triều đại của Antiôkhô Êpiphanê đã được kể với những chi tiết khá vô nghĩa đối với chủ đích của tác giả. Trình thuật này không giống bất cứ một lời sấm tiên tri nào trong Cựu Ước và mặc dù với một giọng văn tiên tri, trình thuật đã gợi lại những biến cố đã xảy ra. Nhưng từ 11 40, giọng điệu đổi khác, và “Thời cùng tận” được loan báo theo kiểu cách thông thường của các tiên tri khác. Do đó, có thể, sách đã được soạn trong cuộc bách hại dưới triều Antiôkhô Êpiphanê và trước khi ông này chết, trước cả cuộc toàn thắng của cuộc nổi dậy do anh em Macabê lãnh đạo, nghĩa là giữa các năm -167 và -164.

            Tính cách mới mẻ này của sách cho chúng ta hiểu về chỗ đứng của nó trong Kinh Thánh Hipri. Sách đã được đưa vào sau khi quy điển các tiên tri được ấn định và đã được xếp vào giữa Esther và Ezra, trong phần “các thư trước”, phần cuối cùng của quy điển Hipri. Các Kinh Thánh Hilạp và Latinh đặt vào lại trong phần các tiên tri và có thêm một vài phần thuộc quy điển thứ : Ca vịnh Azarya và Ca ngợi của ba người trẻ, 3 24-90, câu truyện về Susanna 13, các câu truyện về Bel và con Rắn Thiêng, 14.

            Sách có mục đích nâng đỡ lòng tin và niềm trông cậy của các người Dothái bị Antiôkhô Êpiphanê bách hại. Đaniel và các bạn của ông cũng đã trải qua những thử thách như họ, 1, 3, 6, nhưng các ông lướt thắng nổi và những kẻ bách hại xưa đã phải nhìn nhận quyền năng của Thiên Chúa đích thực. Kẻ bách hại mới được tả với những nét hắc ám hơn, nhưng, vào cuối thời nghĩa nộ, 8 19 11 36, thời cùng tận sẽ tới, 8 17 11 40, thời kẻ bách hại sẽ bị bẻ gãy, 8 25 11 45. Đó sẽ là thời chấm dứt các họa tai và tội lỗi và thời ra đời của Nước Các Thánh, do “Con Người” cai trị và sẽ tồn tại mãi mãi, 7.

            Lòng mong chờ Thời Cùng Tận, sự tin tưởng nơi Nước trải dài suốt sách, 2 44 3 33 4 31 7 14. Các giai đoạn của lịch sử thế giới trở thành những giai đoạn của ý định của Thiên Chúa trên kế đồ đời đời. Quá khứ, hiện tại, tương lai, tất cả trở thành lời tiên tri bởi vì tất cả đã được nhìn dưới ánh sáng của Thiên Chúa, 2 21. Bởi cái nhìn vừa lịch sử và vừa ngoài thời gian ấy, tác giả mạc khải ý nghĩa tiên tri của lịch sử. Mầu nhiệm ấy của Thiên Chúa, 2 18 4 6, đã được mạc khải qua các nhân vật bí nhiệm, những sứ giả của Đấng Tối Cao ; giáo lý về các Thiên Thần được quả quyết trong sách Đaniel cũng như trong Êzêkiel và Tôbya. Việc Mạc khải có liên quan tới ý định thầm kín của Thiên Chúa trên dân Người và các dân tộc. Một bản văn quan trọng về sự sống lại loan báo sự sống lại của kẻ chết để hưởng sự sống hay hổ nhục đời đời, 12 2. Nước chờ đợi sẽ bao quát mọi dân nước, 7 14, không cùng, đó sẽ là Nước các Thánh, 7 18, nước của Thiên Chúa, 3 33 4 31, nước của Con Người đã được trao cho mọi quyền bính, 7 13-14.

            Con Người nhiệm mầu ấy, được 7 18 và 21-27 đồng hóa với cộng đồng các Thánh, cũng là đầu của cộng đồng, là thủ lãnh của nước Cánh chung, nhưng ngài không phải là Mêsia thuộc dòng họ Đavit.

            Sách Đaniel không còn đại diện cho phong trào tiên tri theo đúng nghĩa của nó. Sách không chứa đựng việc rao giảng của một tiên tri được Thiên Chúa sai đi với một sứ vụ nơi người đương thời, sách đã được soạn và được viết liền sau đó bởi một tác giả ẩn sau một cái tên giả. Các câu truyện xây dựng trong phần I gần gũi với một loại các trước tác khôn ngoan, loại truyện về Yuse trong Khởi nguyên hay trong Tôbya. Các thị kiến trong phần II mạc khải một mầu nhiệm của Thiên Chúa, về thời tương lai, trong một giọng văn có ý bí ẩn. “Cuốn sách niêm phong”, 12 4 mở đầu cho loại văn khải huyền đã được Êzêkiel chuẩn bị và sẽ rất thịnh hành trong văn chương Dothái. Trong sách Khải Huyền của Thánh Yoan trong Tân Ước, các niêm ấn của sách đã bị bẻ gãy, Kh 5-6, lời không còn được giữ kín, bởi “thời buổi đã gần”, Kh 22 10 và người ta chờ đợi Chúa đến lại, Kh 22 20, 1C 16 22.

                                    MƯỜI HAI TIÊN TRI NHỎ

                                    TIỂU DẪN

            Sách cuối cùng của phần các Tiên tri trong quy điển Hipri được gọi bằng một tiếng trổng “Mười hai”. Sách gộp lại mười hai tập nhỏ gán cho một số tiên tri khác nhau. Giáo hội Kitô-giáo coi đó như một sưu tập của mười hai Tiên tri nhỏ. Nhỏ vì tính cách vắn vỏi của các tập sách chứ không phải vì không có giá trị bằng các Tiên tri “lớn”. Sưu tập đã hoàn thành vào thời sách Huấn ca, Hc 49 10.

Amos

            Amos là một mục tử tại Tơqoa, bên bìa sa mạc Yuđa, 1 1 ; ông được Yavê sai đi tuyên sấm tại Israel, 7 14. Sau một thời gian ngắn thi hành sứ vụ tại Bêthel, 7 10t và có thể tại Samari nữa, coi 3 9 4 1 6 1, ông bị trục xuất khỏi Israel và trở về với nghề cũ.

            Ông rao giảng dưới triều vua Yơrôbôam II, -783-743, thời đại vinh quang về mặt loài người : Vương quốc mở rộng và nên giàu có, nhưng trong đó, sự xa hoa của kẻ lớn gia tăng bên cạnh cảnh cùng quẫn của những kẻ bị áp bức, bóc lột và cảnh huy hoàng của lễ nghi che đậy sự thiếu sót một lòng đạo đích thực. Nhân danh Thiên Chúa, tiên tri Amos lên án cuộc sống sa đọa của thành thị, những bất công xã hội, sự an tâm giả tạo người ta đặt nơi những lễ nghi không hồn, 5 21-22. Yavê, Chúa của thế giới, Đấng trừng phạt mọi dân nước, 1 2, sẽ sửa trị nặng nề Israel, một dân đáng lý ra phải có một sự chính trực cao hơn vì được tuyển chọn, 3 2. “Ngày của Yavê” sẽ là tăm tối, 5 18t, sự trả thù sẽ khủng khiếp, 6 8t, và sẽ do một dân chính Thiên Chúa gọi đến, 6 14. Assur không được nêu lên đích danh nhưng nằm trong nhãn giới của Tiên tri. Tuy nhiên, tiên tri Amos cũng đã hé mở một tia hi vọng, nhãn giới một sự cứu thoát cho Nhà Yacob, 9 8, cho “số sót” của Yuse, 5 15.

            Bố cục hiện tại của sách có nhiều lộn xộn. Trình thuật bằng văn xuôi, 7 10-17, ở giữa hai thị kiến, phải đặt ở cuối các lời sấm mới đúng chỗ. Các lời sấm ngắn về Tyrô, Eđom, 1 9-12 và Yuđa, 2 4-5, có thể là từ thời Lưu đày…

Hôsê

            Hôsê, quê ở vương quốc phía Bắc và đương thời với Amos, vì ông đã khởi đầu rao giảng dưới triều Yơrôbôam II. Sứ vụ của ông còn kéo dài dưới các triều vua kế tiếp, nhưng có lẽ ông đã không chứng kiến vụ Samari sụp đổ năm -721. Một giai đoạn đen tối đối với Israel : Giặc ngoài xâm chiếm, -734 -732, bên trong nổi loạn, tôn giáo và luân lý sa đọa.

            Về cuộc sống của Hôsê trong giai đoạn nhiễu nhương này, chúng ta chỉ biết đến thảm kịch gia đình của ông, 1-3. Nhưng thảm kịch này có tính cách quyết định đối với hành động tiên tri của ông. Ý nghĩa của các chương đầu này còn tranh luận. Đây là giải thích có thể cái nhiên nhất : Hôsê đã cưới một người vợ và người vợ này đã bỏ ông, nhưng ông vẫn tiếp tục yêu quí và đã nhận về lại sau khi đã thử luyện. Kinh nghiệm đau thương này trở thành một hình ảnh cho cách cư xử của Yavê đối với dân của Người. Ch. 2 là chương áp dụng và đồng thời đưa ra chìa khóa của cả sách : Israel đã được Yavê cưới lấy, nhưng Israel đã ăn ở như một người vợ bất trung, như một con điếm, do đó đã làm Yavê nổi cơn ghen tức và phẫn nộ. Tuy nhiên, Yavê vẫn còn thương mến Israel, Người sẽ sửa trị nhưng là để đưa Israel về lại với Người và ban lại những niềm vui của thuở ban đầu.

            Hôsê là người đầu tiên đã diễn tả những liên lạc giữa Yavê và Israel trong ngôn ngữ của một cuộc hôn nhân. Đề tài căn bản của tín thư của ông là tình thương của Thiên Chúa không được dân Người đón nhận, hay đã được đáp lại bằng những bội phản. Hôsê nhắm cách riêng các giai cấp lãnh đạo trong xã hội. Các vua, được chọn trái ý của Yavê, với nền chính trị phàm tục của họ, đã làm dân được tuyển chọn rơi xuống đồng hàng với các dân khác. Các tư tế, dốt nát và tham lam, đã đưa dân tới chỗ diệt vong. Cũng như Amos, tiên tri Hôsê lên án những bất công và tàn bạo, nhưng ông chú tâm đặc biệt đến sự thất trung tôn giáo. Yavê là Thiên Chúa ghen tuông, Người không chấp nhận các kẻ Người thương san sẻ tình yêu cho kẻ khác, 2 18. Do đó, Israel sẽ không khỏi bị trừng trị : Nhưng, Thiên Chúa chỉ trừng trị để cứu vớt. Israel, một khi bị bóc lột và hạ nhục sẽ nhớ lại thời mình còn trung tín và Yavê sẽ đón nhận lại dân của Người đã hối cải và cho hưởng lại hạnh phúc và an bình.

            Các lời sấm của Hôsê được thu tập tại Israel và sưu tập này đã được đón nhận tại Yuđa, và đã được duyệt lại một hoặc hai lần, coi 1 1 7 5 5 6 11 12 3. Câu cuối cùng, 14 10, là suy tư của một hiền nhân thuộc thời Lưu đày hay sau Lưu đày về giáo huấn chính và chiều sâu của sách. Bản văn bằng tiếng Hipri là một trong những bản văn bị hư hại nhất của Cựu ước, do đó việc chú giải có khó khăn.

            Sách của Hôsê đã có những âm hưởng thâm sâu trong Cựu Ước và đặc biệt trong các lời kêu gọi của các tiên tri về một tôn giáo của lòng, của con tim. Hình ảnh hôn nhân của những liên lạc giữa Yavê và dân của Người đã được các tiên tri Yêrêmya, Êzêkiel, và phần hai của Ysaya lặp lại. Tân Ước và Cộng đoàn Kitô hữu đã áp dụng cho những liên lạc giữa Đức Yêsu và Hội thánh của Ngài.

Mica

            Tiên tri Mica là một người Yuđa, quê ở Môrêshet, phía Tây Hêbron. Ông đã thi hành sứ vụ của ông dưới triều các vua Akhaz và Êzêkya, nghĩa là trước và sau khi Samari thất thủ năm -721 và có lẽ tới năm -701, năm Sennakêrib kéo quân tới. Do đó, ông đồng thời với Hôsê và Ysaya. Nguồn gốc thôn dã của ông khiến ông gần gũi với Hôsê ; ghét cay ghét đắng các thành thị, có một ngôn ngữ cụ thể và đôi khi tàn bạo, nhiều hình ảnh chớp nhoáng và chơi chữ.

            Sách được chia làm bốn phần : Đe dọa và lời hứa xen kẽ với nhau : 1 2-3 12 : Lên án Israel ; 4 1-5 14 : Những lời hứa cho Sion ; 6 1-7 7 : Lên án Israel lần nữa ; 7 8-20 : Niềm cậy trông. Sự sắp xếp này là công trình của các nhà ấn hành sách. Khó mà nói được mức độ sách đã được sửa chữa tới mức nào. Các nhà chú giải đều đồng ý là 7 8-20 nằm hẳn trong thời đi Lưu đày về. Mặt khác 2 12-13 4 6-7 5 6-7 cũng nằm trong thời này. 4 1-5 được gặp lại hầu như từng chữ trong Ys 2 2-5. Nhưng không phải vì thế mà có thể loại khỏi tín thư đích thực của tiên tri Mica mọi lời hứa về tương lai. Sưu tập các lời sấm trong các ch. 4-5 đã được thực hiện trong hoặc sau Lưu đày.

            Chúng ta không biết gì về cuộc đời của tiên tri và tiên tri được Thiên Chúa kêu gọi như thế nào, chúng ta cũng không rõ. Nhưng chúng ta cũng có thể nhận thấy tiên tri có một ý thức rõ rệt về ơn kêu gọi tiên tri của mình và đó là điểm làm ông khác với các người được thần ứng giả khác. Ông loan báo tai ương một cách vững vàng, 2 6-11 3 5-8. Ông mang lời của Thiên Chúa và lời này trước tiên là một lời lên án. Yavê lên án dân của Người, 1 2 6 1. Israel có tội : Tội tôn giáo và nhất là tội luân lý. Tiên tri Mica thóa mạ các kẻ giàu cướp bóc, các kẻ cho vay vô lương tâm, những con buôn gian lận, những gia đình chia rẽ, các tư tế và các tiên tri tham lam, các thủ lãnh độc tài, các quan tòa ăn hối lộ. Hình phạt đã định : Trong sự đảo lộn của thế giới, 1 3-4, Yavê sẽ đến xét xử và trừng trị dân của Người, sự sụp đổ của Samari đã được loan báo, 1 6-7, của nơi Mica ở, 1 8-15 ; của chính Yêrusalem, 3 12.

            Tuy nhiên tiên tri còn giữ một niềm cậy trông, 7 7. Ông lấy lại giáo lý về số sót được phác họa trong Amos và loan báo vị vua hòa bình sẽ sinh tại Ephrata, ngài sẽ chăn dắt đàn chiên của Yavê, 5 1-5.

            Mica có một ảnh hưởng lâu dài : Những người đồng thời với Yêrêmya biết ông và trích của ông một lời sấm về Yêrusalem, Yr 26 18. Tân Ước đã giữ lại đoạn ông nói về nơi Đấng Mêsia sinh ra, Mt 2 6 Yn 7 42.

Sôphônya

            Theo đề sách, tiên tri Sôphônya đã rao giảng dưới triều Yôsya, -640 -609. Việc ông chỉ trích các thói tục ngoại lai, 1 8, việc tôn sùng các thần giả, 1 4-5, việc ông trách mắng các tư tế, 1 8 và thái độ im lặng của ông về nhà vua là những dấu cho thấy ông đã rao giảng trước cuộc cải cách tôn giáo và giữa các năm -640 -630, nghĩa là ngay trước khi tiên tri Yêrêmya khởi đầu sứ vụ của ông. Yuđa, bị Sennakêrib cắt mất một phần, đã sống dưới sự đô hộ của Assur và các triều đại vô đạo của Manassê và Amôn đã làm tăng thêm sự hỗn loạn về mặt tôn giáo. Nhưng sự suy yếu của Assur giờ đây đã làm nổi lên lòng tin tưởng về sự khôi phục quốc gia, kèm theo một cuộc cải cách về tôn giáo.

            Sách được chia thành bốn đoạn nhỏ : Ngày Yavê, 1 2-2 3 ; chống lại các dân tộc, 2 4-15 ; chống lại Yêrusalem, 3 1-8 ; các lời hứa, 3 9-20. Cũng như mọi sưu tập tiên tri khác, sách Sôphônya cũng đã được sửa chữa và thêm vào, nhưng không nhiều : Cách riêng, các lời loan báo về việc người ngoại trở lại, 2 11 và 3 9-10, không hạp với khung cảnh và dựa vào Ysaya thứ hai ; tính cách đích thực của các ca vịnh nhỏ 3 14-15 và 16-18a cũng rất được tranh luận và người ta đồng ý đặt 3 18b-20 trong thời Lưu đày.

            Tín thư của Sôphônya gồm tóm trong việc loan báo Ngày Yavê, một thảm nạn sẽ úp xuống trên mọi dân tộc cũng như trên Yuđa. Yuđa đã bị lên án vì những lỗi lầm tôn giáo và luân lý do lòng kiêu ngạo và bất phục tùng, 3 1 11. Sôphônya có một ý niệm sâu xa về tội : Một sự vi phạm tới Thiên Chúa sống động. Hình phạt trên các dân tộc là một sự cảnh cáo, 3 7, nhằm đưa dân về lại con đường vâng phục và khiêm tốn, 3 12-13. Ảnh hưởng của sách Sôphônya khá giới hạn. Tân Ước chỉ dùng một lần, Mt 13 41.

Nahum

            Sách Nahum mở đầu bằng một Ca vịnh về Cơn Thịnh Nộ của Yavê trên các kẻ gian ác và những lời sấm đối chiếu sự trừng phạt Assur với sự Cứu Chuộc Yuđa 1 2-2 3, nhưng đề tài chính là sự sụp đổ của Ninivê, được loan báo và được tả một cách sống động và súc tích khiến Nahum được coi như là một trong những thi sĩ lớn của Israel, 2 4-3 19.

            Lời tiên tri có trước ít lâu việc chiếm Ninivê năm -612. Người ta cảm thấy trong lời tiên tri sức nóng hổi của lòng căm tức của Israel trên kẻ thù truyền kiếp, dân Assur, và sự hoan hỉ trước sự sụp đổ của đế quốc này. Nhưng qua tinh thần quốc gia hẹp hòi này, người ta thấy bộc lộ một lý tưởng về sự công chính và về lòng tin : Sự sụp đổ của Ninivê là một án của Thiên Chúa phạt kẻ phá hoại kế đồ của Thiên Chúa, 1 11 2 1, kẻ áp chế Israel, 1 12-13 và mọi dân nước, 3 1-7.

            Tập sách nhỏ của Nahum có thể đã nuôi dưỡng những tin tưởng trần tục của Israel vào các năm -612, nhưng niềm vui không được dài và Yêrusalem đã sụp đổ ít lâu sau sự sụp đổ của Ninivê. Khi ấy, ý nghĩa của tín thư được mở rộng và đào sâu và Ys 52 7 lấy lại hình ảnh của Na 2 1 để tả sự giải thoát.

Habacuc

            Sách Habacuc đã được soạn thảo một cách kỹ lưỡng. Sách mở đầu với một cuộc đối thoại giữa tiên tri và Thiên Chúa, 1 2-2 4. Trong ch. 3, tiên tri ca ngợi sự toàn thắng cuối cùng của Thiên Chúa.

            Người ta tranh luận về các hoàn cảnh của lời tiên tri và về tông tích của kẻ áp chế nói trong 2 5-20 : Người Assur hay người Kanđu hay chính Yôyaqim vua Yuđa ? Giả thuyết cuối cùng không mấy cái nhiên. Hai giả thuyết đầu có nhiều lý chống đỡ hơn. Nếu cho rằng kẻ áp chế là người Assur, thì chính là để chống lại họ mà Thiên Chúa đã cho người Kanđu chỗi dậy, 1 5-11, và lời tiên tri sẽ đặt trước sự sụp đổ của Ninivê năm -612. Cũng có thể cho rằng các kẻ áp chế là người Kanđu, 1 6. Họ đã là những khí cụ của Thiên Chúa để phạt dân của Người, nhưng chính họ cũng sẽ bị trừng phạt lại vì sự tàn bạo vô luân của họ, bởi Yavê giao chinh để cứu dân của Người và tiên tri chờ đợi sự can thiệp này của Thiên Chúa với một lòng khắc khoải cuối cùng sẽ nhường chỗ cho vui mừng. Nếu sự giải thích này đúng thì niên biểu của sách sẽ là giữa trận Karkêmish năm -605, và cuộc vây hãm Yêrusalem đầu tiên năm -597. Như thế, tiên tri Habacuc sẽ đồng thời với Nahum và Yêrêmya.

            Habacuc đã đem lại một nét mới mẻ trong giáo lý của các tiên tri : Ông đã dám vặn hỏi Thiên Chúa về việc Người quản cai thế giới. Yuđa đã phạm tội, nhưng tại sao Thiên Chúa, Đấng Thánh, 1 12, Đấng có con mắt quá tinh sạch để nhìn sự dữ, 1 13, lại chọn người Kanđu mọi rợ để thi hành sự trả thù, tại sao lại phạt kẻ dữ bằng một kẻ dữ hơn, tại sao Người lại có vẻ giúp cho sức mạnh bất chính được toàn thắng ? Đó là vấn đề sự Dữ đặt trên bình diện các dân tộc và vấn đề Habacuc nêu lên cũng là vấn đề của nhiều người trong hiện tại. Câu trả lời của Thiên Chúa : Qua những ngả đường đối chọi nhau, Thiên Chúa toàn năng chuẩn bị cho sự toàn thắng cuối cùng của kẻ chính trực và người công chính sẽ sống bằng sự trung tín của mình, 2 4, viên ngọc của tập sách nhỏ này sẽ được Thánh Phaolô lồng vào trong giáo lý của Ngài về lòng tin, Rm 1 17 Ga 3 11 Hr 10 38.

Haggai

            Haggai mở đầu cho giai đoạn tiên tri cuối cùng, giai đoạn sau Lưu đày. Trước Lưu đày, đề tài chính là Sửa trị. Trong Lưu đày, đề tài trở thành Yên ủi và bây giờ là Khôi phục. Haggai nằm trong giai đoạn quyết định của việc thành lập Dothái-giáo : Sự ra đời của cộng đoàn mới tại Phalệtin. Những lời ủy lạo vắn vỏi của ông nằm trong khoảng thời gian từ cuối tháng tám tới giữa tháng 12 năm -520. Những người Dothái đầu tiên từ Babylon trở về để tái thiết Đền thờ đã sớm rơi vào tuyệt vọng. Nhưng các tiên tri Haggai và Zacarya đã lay tỉnh mọi người và thúc vị thống đốc Zôrôbabel và thượng tế Yôsua tiếp tục công việc tái thiết Đền thờ, coi Er 5 1.

            Đó là tất cả đề tài của tập sách nhỏ gồm bốn diễn từ : Bởi vì Đền thờ còn hoang tàn, Yavê đã đánh phạt trên các hoa mầu của đất đai, nhưng việc tái thiết Đền thờ sẽ đem lại kỷ nguyên của thịnh vượng. Việc xây dựng Đền thờ được trình bày như điều kiện để Yavê ngự đến và thiết lập vương quyền của Người ; thời Cứu chuộc Cánh chung sẽ hé mở.

Zacarya

            Sách Zacarya gồm hai phần rõ rệt : 1-8 9-14. Sau phần mở đầu, đề tháng 10-11 năm -520, hai tháng sau lời sấm đầu tiên của Haggai, tập sách đã ghi lại tám thị kiến của tiên tri đề tháng 2 năm -519, 1 7-6 8, tiếp theo sau là việc đội triều thiên tượng trưng cho Zôrôbabel (các người hiệu đính đã thay vào tên của vị thượng tế Yôsua khi lòng tin tưởng đặt nơi Zôrôbabel biến thành mây khói và giới tư tế nắm mọi quyền bính) 6 9-14. Ch. 7 nhắc nhở lại quá khứ của quốc gia và Ch. 8 mở ra trước nhãn giới một sự cứu chuộc thời Mêsia.

            Sách đã được duyệt lại bởi chính tiên tri hoặc các đồ đệ của ông. Ví dụ, những lời loan báo có tính cách phổ quát trong 8 20-23 đã được thêm sau 8 18-19 đã là một lời kết luận.

            Cũng như Haggai, Zacarya chú trọng về việc tái thiết Đền thờ. Nhưng ông đã dành một phần khá rộng để nói về sự tái thiết quốc gia với những đòi hỏi về sự tinh sạch và luân lý, và sự chờ đợi Cánh chung trở nên thúc bách hơn. Sự tái thiết này phải mở ra một thời cứu chuộc, thời chức tư tế, đại diện nơi Yôsua, sẽ được đề cao, 3 1-7, và thời vương quyền sẽ do “chồi lộc” đảm nhiệm, 3 8, một ý niệm thuộc thời cứu chuộc được 6 12 áp dụng cho Zôrôbabel. Cả hai vị được Xức dầu, 4 14, sẽ cùng cai trị trong sự đồng tâm nhất trí, 6 13.

            Phần thứ hai, 9-14, hoàn toàn khác, không ngày tháng và tên tuổi. Không còn nói đến Zacarya, Yôsua, Zôrôbabel hay việc xây cất Đền thờ. Giọng văn cũng khác và thường xuyên qui về các sách trước, nhất là Yr và Ez. Bối cảnh lịch sử cũng khác ; Aicập và Assur xuất hiện như những danh từ tượng trưng cho tất cả mọi kẻ áp chế.

            Rất có thể các chương này đã được soạn vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ IV trước Công nguyên, sau cuộc chinh phục của Alexanđrô. Các chương này xem ra không ăn khớp với nhau. Có thể chia ra làm hai phần, mỗi phần đều có một đề 9-1112-14 ; phần I hầu như hoàn toàn bằng văn vần, phần II, bằng văn xuôi ; Người ta nói đến một Zacarya thứ hai và một Zacarya thứ ba. Thực ra đó là hai sưu tập. Phần thứ nhất có lẽ đã sử dụng những thi khúc xưa, trước thời Lưu đày và quy về những biến cố lịch sử khó mà xác định. Phần hai, 12-14, với một ngôn ngữ khải huyền, tả các thử thách và vinh quang của Yêrusalem của những thời sau hết.

            Phần thứ hai này của sách khá quan trọng nhất là bởi giáo lý về thời cứu chuộc của nó : Sự phục hưng nhà Đavit, 12, sự chờ đợi một vị vua Mêsia khiêm nhu và an hòa, 9 9-10, nhưng cũng có một lời loan báo bí nhiệm về Đấng bị đâm 12 10, một thần quyền hiếu chiến, 10 3-11 3 nhưng cũng tế tự theo kiểu Êzêkiel, 14. Các nét này sẽ hòa hợp với nhau trong con người của Đức Kitô và Tân Ước thường trích hoặc ám chỉ đến các chương này của Zacarya, như Mt 21 4-5 27 9 26 31 = Mc 14 27 Yn 19 37.

Malaki

            Sách được gọi là của “Malaki” có thể là một tác phẩm vô danh, bởi tên “Malaki” có nghĩa là “thần sứ của tôi” và xuất phát từ 3 1. Sách gồm sáu đoạn, bố cục theo một kiểu : Yavê hoặc tiên tri của Người đưa ra một quả quyết, quả quyết này được dân chúng hay các tư tế tranh luận rồi được khai triển trong một diễn từ bao gồm cả lời đe dọa lẫn hứa hẹn. Hai đề tài lớn : Những lỗi lầm về tế tự của các tư tế và của cả tín hữu, 1 6-2 9 và 3 6-12, nạn hôn nhân dị biệt và ly dị, 2 10-16. Tiên tri loan báo Ngày Yavê sẽ thánh luyện các phần tử trong hàng tư tế, sẽ nghiến ngấu các kẻ gian ác và ban toàn thắng cho người công chính, 3 1-5 13-21. Đoạn 3 22-24 được thêm vào, có lẽ cả đoạn 2 11b-13b.

            Nội dung của sách có thể giúp chúng ta tính niên biểu của sách : Sau việc tái thiết lập tế tự trong Đền thờ được xây lại, -515, và trước việc cấm cách hôn nhân dị biệt dưới thời Nêhêmya, -445. Sự hứng khởi do Haggai và Zacarya khơi lên đã dần dần tiêu tan và cộng đoàn bắt đầu bỏ lơi. Cảm hứng theo Thứ luật và cả Êzêkiel, tiên tri quả quyết người ta không thể coi rẻ Thiên Chúa, Đấng đòi hỏi dân của Người lòng đạo và sự tinh khiết. Ông chờ đợi Thiên thần của Giao ước tới, được dọn đường bởi một sứ giả bí nhiệm, 3 1 ; vị sứ giả ấy, Mt 11 10 đã gặp nơi Yoan Tẩy giả, vị Tiền hô, coi Lc 7 27 và Mc 1 2. Trong thời cứu chuộc này sẽ được tái lập : Trật tự luân lý, 3 5, trật tự tế tự 3 4, mà chóp đỉnh là lễ tế hoàn hảo được mọi dân nước dâng lên Thiên Chúa 1 11.

Abđya

            Tập sách ngắn nhất trong các “sách” tiên tri, có 21 câu, nhưng đã làm cho các nhà chú giải tranh luận khá nhiều về tính cách thống nhất, về thể văn và về niên biểu của sách. Riêng về niên biểu, đã có nhiều giả thuyết, thay đổi từ thế kỷ IX tới thời Hilạp.

            Lời rao giảng của Abđya diễn ra trên hai bình diện : Hình phạt Eđom, được loan báo trong nhiều lời sấm, 1b-14, với 15b như một kết luận ; Ngày Yavê, Ngày Israel trả thù trên Eđom, 15a + 16-18, với lời kết luận : “Yavê đã phán”. Các lời hứa Cánh chung trong các câu 19-21 được thêm vào. Sách có gì tương tợ với những lời nguyền rủa Eđom người ta gặp thấy, từ năm -587 trong Tv 137 7 ; Ai ca 4 21-22 Ez 25 12t 35 1t Ma 1 2t và Yr 49 7t : Người Eđom đã lợi dụng sự sụp đổ của Yêrusalem để tràn vào Yuđê. Ký ức về các biến cố này vẫn còn rất sống động và lời tiên tri có thể đã được soạn tại Yuđê trước khi người đi lưu đày trở về. Chỉ các câu cuối cùng là có thể đã được thêm vào sau Lưu đày.

            Đây là tiếng kêu trả thù trong đó tinh thần quốc gia tương phản với tinh thần đại đồng như trong phần thứ hai của Ysaya chẳng hạn. Nhưng “sách” cũng đã đề cao sự ngay chính dễ sợ và quyền năng của Yavê, và không nên tách “sách” này ra khỏi phong trào tiên tri chung.

Yôel

            Sách Yôel được chia ra làm hai phần. Trong phần thứ nhất, nạn cào cào châu chấu tàn phá Yuđa đưa đến một nghi lễ phụng vụ tang chay và khẩn nài ; Yavê trả lời và hứa sẽ cho hết nạn và được dư đầy, 1 2-2 27. Phần thứ hai, với giọng văn Khải huyền, tả cuộc phán xét các dân tộc và sự toàn thắng vĩnh viễn của Yavê và của Israel, 3-4. Sự thống nhất của hai phần được bảo đảm qua sự qui chiếu về Ngày Yavê, đã xuất hiện trong 1 15 2 1-2 10-11 và là đề tài của các Ch. 3-4. Châu chấu là đạo quân của Yavê được tung ra để thực hiện sự phán xét của Người, một Ngày Yavê. Nhưng người ta có thể được cứu bởi thống hối đền tội và bởi cầu nguyện ; tai ương trở thành khuôn mẫu của cuộc phán xét cùng tận, Ngày Yavê mở đầu cho các thời Cánh chung. Có tác giả cho rằng sách được soạn vào cuối thời vương quyền, nhưng đa số các nhà chú giải đưa về thời sau Lưu đày với những lý sau : Sách không qui về một vị vua nào, nhưng lại có nhiều ám chỉ tới Lưu đày, tới Đền thờ được tái thiết, và có những liên lạc với Thứ luật và các tiên tri hậu : Êzêkiel, Sôphônya, Malaki, Abđya. Có thể sách đã được soạn vào những năm 400 trước Công nguyên.

            Những liên lạc của sách với tế tự quả là hiển nhiên. Các Ch. 1-2 có những đặc tính của phụng vụ thống hối kết thúc với lời hứa Thiên Chúa tha thứ. Do đó, người ta coi Yôel như một tiên tri tế tự, gắn liền với dịch vụ tại Đền thờ. Tuy nhiên, các nét này có thể được cắt nghĩa như một sự bắt chước các hình thức phụng vụ về mặt văn chương.

            Thần khí tiên tri đổ tràn trên toàn thể dân của Thiên Chúa vào thời Cánh chung, 3 1-5, là điều Môsê mong ước trong Ds 11 29. Tân Ước coi lời loan báo này đã được thực hiện khi Thánh Linh xuống trên các Tông đồ của Đức Kitô và thánh Phêrô sẽ trích cả đoạn này, Cv 2 16-21 : Yôel là tiên tri của Hiện xuống. Ông cũng là tiên tri của sám hối và những lời ông kêu mời cầu nguyện và giữ chay, mượn ở các nghi lễ của Đền thờ hoặc soạn theo các mẫu ấy, sẽ rất hợp với phụng vụ mùa chay của Kitô-giáo.

Yôna

            Tập sách nhỏ này khác hẳn tất cả các sách tiên tri khác. Sách chỉ là một trình thuật : Câu truyện của một tiên tri bất tuân, thoạt tiên muốn trốn tránh sứ vụ của mình nhưng rồi lại phàn nàn với Thiên Chúa về những thành công bất ngờ của việc rao giảng của mình. Nhân vật chính là một tiên tri đồng thời với Yơrôbôam II, nói tới trong 2V 14 25. Nhưng sách đã không được trình bày như thể là của vị tiên tri này và thực ra thì không thể là của ông. Ninivê “vĩ đại”, bị phá năm -612, chỉ còn là một kỉ niệm xa vời, tư tưởng và cách diễn tả mượn của Yêrêmya và Êzêkiel, ngôn ngữ khá muộn. Tất cả cho phép đặt việc soạn tác sau Lưu đày, trong phong trào của thế kỷ V. Ca vịnh 2 3-10, có một thể văn khác và không có liên lạc gì với hoàn cảnh cụ thể của Yôna và giáo huấn của sách, có thể là đã được thêm sau.

            Tính cách mới mẻ của sách khiến chúng ta phải thận trọng với lối giải thích lịch sử. Đàng khác, có nhiều lý do khiến không thể chấp nhận lối giải thích này : Thiên Chúa có thể thay đổi lòng dạ, nhưng việc trở lại đột ngột của vua Ninivê và dân của ông với Thiên Chúa của Israel hẳn đã để lại dấu vết trong các văn kiện của Assur và trong Thánh kinh. Thiên Chúa làm chủ luật thiên nhiên, nhưng những việc kỳ lạ chồng chất ở đây như những “ngón đòn” của Thiên Chúa đối với vị tiên tri được kể với một giọng điệu hài hước, không thích hợp với giọng văn lịch sử.

            Sách có mục đích để mua vui và cũng để giáo huấn, và giáo huấn của sách này là một trong những điểm cao của Cựu Ước. Cắt đứt lối giải thích các lời tiên tri một cách hẹp hòi, tiên tri quả quyết rằng những đe dọa là biểu hiệu của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng chỉ chờ một dấu hối cải để ban ơn tha thứ. Nếu lời sấm của Yôna không được thực hiện, ấy là vì các quyết định tàn phá luôn luôn có những điều kiện kèm theo. Điều Thiên Chúa muốn, ấy là sự trở lại và như thế thì sứ vụ của tiên tri đã hoàn toàn thành công, coi Yr 18 7-8.

            Cắt đứt với óc địa phương hằng lôi cuốn Cộng đoàn sau Lưu đày, tập sách này rao giảng một tinh thần đại đồng hết sức cởi mở. Ở đây, mọi người đều dễ thương, các thủy thủ người ngoại trong vụ đắm thuyền, vua, dân cư, và đến cả súc vật của Ninivê, mọi người, trừ người Dothái độc nhất, vị tiên tri Yôna. Thiên Chúa sẽ khoan dung đối với vị tiên tri ương ngạnh của Người, nhưng lòng thương xót của Người bao trùm cả kẻ thù truyền kiếp của Israel.

            Chúng ta không xa Tân Ước lắm : Thiên Chúa không phải chỉ là Thiên Chúa của người Dothái, mà còn là Thiên Chúa của kẻ ngoại, bởi chỉ có một Thiên Chúa, Rm 3 29. Trong Mt 12 41 và Lc 11 29-32, Đức Yêsu nêu việc người Ninivê trở lại như một tấm gương và Mt 12 40 sẽ coi việc Yôna nằm trong bụng cá là hình ảnh của việc Đức Kitô trong mồ. Việc sử dụng câu truyện của Yôna này không phải là một bằng chứng về tính cách lịch sử của câu truyện. Đức Yêsu sử dụng điển này của Cựu Ước như các nhà giảng dạy của Kitô-giáo sử dụng các dụ ngôn của Tân Ước : Muốn giáo huấn bằng những hình ảnh quen thuộc chứ không phải là phê phán về tính cách xác thực của các sự kiện.

******************************

[ Mục lục ]

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *