Tiểu dẫn thư của thánh Phaolô

[Trang chủ] [Mục lục]

******************************

                                                THƯ CỦA THÁNH PHAOLÔ

Tiểu dẫn

            Không thể thuật lại sử hạnh của Phaolô, nên xin lấy bản kê niên biểu này với những xuất xứ lấy tự các Thư và sách Công vụ các Tông đồ mà thay thế lại. Kê cứu xuất xứ với niên biểu, người ta đã biết được đại cương sử hạnh Ngài. Bản kê niên biểu làm nổi các Thư, để đặt vị trí các Thư ấy trong đời của Thánh nhân. Tương quan với thế sử – cách riêng do nhiệm kỳ tổng trấn của Galliô tại Corinthô, Cv 18 12 ; và việc bàn giao giữa Fêlix và Porcius Festus, Cv 24 27-25 1 – đã cho phép định ít nhiều niên biểu một cách khá đích xác.

Dung mạo Phaolô

            Về thân xác : có nhiều ức thuyết xây dựng trên các chi tiết này khác trong các thư (lấy 2C 10 10 để hội ra một hình hài mảnh khảnh ; Ga 4 13-15 2C 12 7 để kết luận Phaolô là một người bịnh tật ; Công vụ Phaolô và Têkla : Phaolô hình thù kỳ dị), nhưng kỳ thực, ta không biết được gì là đích xác.

            Tính tình : nhiệt nồng, hăng hái quả cảm, kiên gan, trì chí. Tuy thế, Ngài dễ động lòng cảm thương. Tâm tình chí thành, chí thiết. Lòng mến Thiên Chúa ban xuống đã lợi dụng và biến đổi trái tim Phaolô nên một kỳ công : có sự nghiêm túc của người cha, hòa với lòng tế nhị yêu thương của một người mẹ. Trí não hoạt bát, linh lợi, nhiều trực giác mà lại lý luận đanh thép ; vừa bay bổng ở những chóp đỉnh cao siêu giới Thiên Chúa, lại vừa chu đáo đến những chi tiết vụn vặt của việc tổ chức các giáo hội nơi trần gian. Nhất nhất quay hẳn lên lý tưởng, nhưng lại uyển chuyển đủ để cân nhắc thực tế, và nhún nhượng phải thời. Ít hướng về thiên nhiên và mỹ thuật, nhưng hướng về tâm lý, mải miết với vấn đề nhân sinh (nếu không hẳn là hiện sinh).

Đặc tính các Thư

            Toàn bộ các Thư mang tên của Phaolô có 14 : chung chung bình luận coi : Hr như của một môn đệ Phaolô (có thể Apollo) ; đều nhận Rm, 1 và 2C, Ga ; (họa hiếm mới có người hoài nghi) : 1Th, Ph, Co, Phm ; một số ít hay nhiều nhà bình luận không nhận là của Phaolô : các Thư 2Th, Ep, 1 và 2Tm, Tt, tuy cũng biết rằng các Thư đó có giữ nhiều yếu tố đạo lý Phaolô.

            1) Loại văn. Các Thư của Phaolô đã được viết tùy dịp, không hẳn là những thư từ diễn tả tâm sự riêng tư, mà cũng không thuộc loại xích độc (luận thuyết dưới hình thức thư từ). Các Thư đó phân theo nhiều kiểu : từ Phm gần sát Thư riêng tư, cho đến Rm đã hầu thành một thiên luận. Trừ ít nố họa hiếm như Phm (câu 19), thì Phaolô đọc cho một thư ký viết (Rm 16 22), theo thói thường thời xưa, còn Ngài chỉ viết tự tay mình ít lời từ tạ (2Th 3 17 Ga 6 11 1C 16 21 Co 4 18).

            Đàng khác, các Thư đó là những văn kiện công khai của vị Tông đồ, không cấm tự sự riêng tư, nhưng cũng là hồ sơ của Hội thánh, vì Hội thánh. Trong đó lên tiếng :

            a) chứng tá của Tin Mừng, tiếp tục lời rao giảng và đòi phải quyết định trước tín thư của Chúa.

            b) nhà thần học viện Kinh thánh, thanh minh với kẻ chống đối, xác định đạo lý, suy tư vốn dự kiện của truyền thống để đạt đến thông hiểu trong lòng tin.

            c) một tiên tri, chiêm ngưỡng mạc khải, khả dĩ nâng bổng tín hữu vào mầu nhiệm huyền bí mà thờ lạy ngợi khen Thiên Chúa sau cùng đã đoái thương viếng thăm dân Người, thâu họp toát yếu kế đồ trong Con chí ái của Người.

            2) Văn chương. Tiếng dùng là tiếng Hilạp phổ thông (Koinè) chung với hạng học thức đương thời (có lẽ bởi giáo dục lúc thiếu thời, và bởi giao dịch thường xuyên với thế giới Lahi), ít kiểu nói riêng cho dân Sem. Phaolô có trưng vài câu trước tác cổ điển, quen biết triết lý phổ thông nhuộm màu Khắc kỷ (hỏi và trả lời gãy gọn, Rm 3 1-9), nhưng cũng có những chỗ Phaolô diễn tư tưởng theo kiểu văn chương tôn giáo Hilạp. Phaolô không vụ văn chương chải chuốt, không màng kiểu hùng biện phàm tục. Cậy vào uy quyền của Lời Chúa, cùng mãnh lực của Thánh Thần, Phaolô hiên ngang thuyết phục và đương đầu với mọi kiểu chống đối. Kiểu diễn đạt tư tưởng có khi sai văn phạm, câu kéo không thành hình : tư tưởng quá súc tích, tâm tình chấn động. Có những khúc như thể đã suy gẫm từ lâu, nhưng cũng lắm chỗ hồn nhiên bộc phát. Văn như thác trút, tư tưởng dày đặc, nên lắm chỗ khúc mắc, nhưng tựu trung, ta có những đoạn văn vô tiền khoáng hậu về hứng khí tôn giáo và văn chương.

            3) Đạo lý. Về thần học, Phaolô có một địa vị vô song trong Hội thánh mọi thời ; hiện nay, người ta vẫn chưa khai thác xong đạo lý của Ngài, nói chi là mong có người đã quán xuyến nổi. Đây chỉ vạch ra vài nét nên ghi kỹ khi đọc các Thư của Ngài.

            a) Chúa Kitô sống lại hiện ra với Phaolô trên đường đi Đama, đã đảo ngược cuộc đời của Phaolô thế nào, thì cũng đã đánh dấu tôn giáo và đạo lý của Ngài thể ấy. Tự đó, sự công chính giải thoát của Thiên Chúa đã nên tỏ rõ là ơn cứu rỗi nhờ lòng tin vào Chúa Kitô ; công việc Thiên Chúa hằng đeo đuổi từ tạo thiên lập địa, chính là điều đã được thực hiện nơi sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, mà hiện nay mãnh lực của Thánh Thần vẫn hoạt động trong mọi kẻ tin. Chúa Kitô chết và sống lại, thâu họp, toát yếu mọi sự trong mình Ngài để Thiên Chúa được vinh quang.

            Phaolô là người thứ nhất trong Tân ước đã nói rõ ra sự hằng có và thần tính của Chúa Yêsu Kitô Con Thiên Chúa, và việc cứu chuộc mọi người trong Chúa Kitô.

            b) Suốt một thánh sử lâu dài, Thiên Chúa đã dọn ơn cứu thoát cho dân Người đã chọn, trên cơ sở tôn giáo Người đã thiết lập, nói tắt là Lề luật, một quản giáo có nhiệm vụ dẫn dân của Thiên Chúa vào một chế độ mới, thiêng liêng. Thần khí Thiên Chúa sáng soi cho hiểu biết nhiệm cục Giao ước mới trong Chúa Kitô, vì chính Thánh Thần là mãnh lực cánh chung làm nên Giao ước mới.

            Do đó mới hiểu được Kinh thánh Cựu ước và thánh sử dĩ vãng. Phaolô đã vạch ra tính cách lâm thời của Luật Môsê, và tuyên ngôn cách cứng cáp “đức công chính” do tự lòng tin vào Chúa Kitô, không do việc làm của Lề luật, bởi đó Lề luật Môsê đã cáo chung.

            Phaolô đã nói ra mầu nhiệm Hội thánh “Thân mình Chúa Kitô” : xây dựng trên lời rao giảng Tin Mừng, gồm có Dothái và dân ngoại, trong bình đẳng (không phân biệt chủng tộc, giai cấp, nam nữ), trong sự tự do của con cái Thiên Chúa (nghĩa là được giải phóng khỏi ách nô lệ của bất cứ điều gì không phải là Thiên Chúa), nhưng tự do trong phục vụ theo gương Chúa Kitô “vâng phục và hạ mình cho đến chết”.

            c) Công việc cứu chuộc được liên kết với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, sáng kiến tự lòng mến của Cha, lòng mến lân tuất đã thực hiện trong sự chết thục tội của Chúa Yêsu Kitô, Con của Người, nhờ mãnh lực của Thánh Thần, là Đấng, nhân dịp người ta tin vào Tin Mừng và chịu lấy bí tích, thì làm cho người ta hiểu biết và đón nhận vào đời mình ơn cứu chuộc đó để biến đổi tín hữu nên người “thần thiêng”, con cái mà Cha đã chọn từ trước tạo thành, và đã ban quyền nghĩa tử nhờ bởi Thập giá của Chúa Kitô và mãnh lực vạn năng của Thánh Thần.

******************************

Leave a comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *